Bài dự thi Tìm hiểu về lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam - Phạm Hương Giang

docx 10 trang Mạnh Nam 05/06/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "Bài dự thi Tìm hiểu về lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam - Phạm Hương Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài dự thi Tìm hiểu về lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam - Phạm Hương Giang

Bài dự thi Tìm hiểu về lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam - Phạm Hương Giang
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
 BÁO GIÁO DỤC VÀ THỜI ĐẠI
 BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU VỀ LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC 
 CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM”
 Họ và tên: Phạm Hương Giang
 Đơn vị công tác: Lớp 11A1 - Trường THPT A Hải Hậu
 Địa chỉ: Xóm 10 – Xuân Ninh – Xuân Trường – Nam Định
 Số điện thoại: 0842032006
 Hải Hậu, tháng 9 năm 2022 Tình yêu nước là sức mạnh lớn nhất của mỗi dân tộc, là niềm tự hào và động lực 
phát triển. Một dân tộc còn sống là một dân tộc còn tình yêu nước.
 Yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, là tình yêu, sự tôn trọng và tôn 
thờ khắc sâu trong tim đối với quê hương, đất nước. Lòng yêu nước là phẩm chất cao 
quý của mỗi người, là thứ tình cảm thiêng liêng, cao cả nhất mà người dân dành cho 
đất nước mình. Truyền thống yêu nước là sức mạnh nguồn cội, là nguồn lực nội sinh, 
tiềm tàng của cộng đồng dân tộc. Lòng yêu nước của mỗi người Việt không còn chỉ là 
tư tưởng, tình cảm mà nó đã trở thành triết lí sống, niềm tự hào, sức mạnh, là thước đo 
đạo lí làm người của mỗi người con đất Việt.
 Nhận định về truyền thống yêu nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng 
định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. 
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành 
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó 
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
 Lòng yêu nước của con người Việt Nam được thể hiện qua lòng yêu Tổ quốc, yêu 
đồng bào, yêu quê hương, đất nước, tình yêu con người, văn hóa, phong tục tập quán 
và lối sống trọn tình vẹn nghĩa tốt đẹp của dân tộc. Lòng yêu nước là yêu tất cả những 
gì tốt đẹp, yêu thiên nhiên muôn hình vạn trạng, yêu bầu trời trong xanh, yêu đàn chim 
đang bay lượn, yêu cả những dòng sông thân thương hay gần gũi nữa là yêu những 
chiếc lá mỏng manh. 
 “ Xương máu tình riêng đâu màng
 Việt Nam lòng yêu nước vốn thiêng liêng
 Hi sinh dáng đứng hiên ngang
 Tự hào lịch sử sang trang rực hồng”
 Trong bài Diễn văn kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 
ngày 3/2/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, cũng nhấn mạnh: “Lịch 
sử hàng nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và giữ nước, kiên 
quyết chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước là truyền 
thống cực kỳ quý báu của dân ta”. Lịch sử dân tộc Việt Nam ta là khúc tráng ca hào 
hùng, vàng son về tinh thần, ý chí kiên cường, bất khuất chống lại sự đô hộ, đồng hóa, 
âm mưu xâm lược của các thế lực ngoại bang, vượt qua thiên tai, dịch bệnh cũng như 
sự quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển, ngày càng 
đi lên sánh vai với các cường quốc năm châu.
 Trong bài thơ “Lịch sử nước ta”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
 “Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”
 Độc lập tự do là nội dung cơ bản chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam. Đã 
nhiều thế kỷ dưới ách thống trị của nước ngoài, hơn ai hết, nhân dân ta ý thức rất sâu 
sắc rằng mất nước thì sẽ mất tất cả, mất cả quyền sống và đạo lý làm người, mất cả bản 
sắc văn hóa của dân tộc. Vì vậy đã từ lâu trong tình cảm của nhân dân ta, tình yêu Tổ 
quốc gắn chặt với tình yêu gia đình. Yêu nước, thương nhà gắn kết và hòa với nhau 
làm một. Nước mất thì nhà tan nên cứu nước, cứu nhà là nghĩa vụ thiêng liêng đối với 
tất cả mọi người. Vì độc lập, tự do, nhân dân ta đã chiến đấu kiên cường, không sợ khó 
khăn gia khổ, chấp nhận hy sinh. Hai Bà Trưng thà tuẫn tiết không chịu để giặc bắt. 
Tướng Lĩnh nhà Trần đã xin nhà vua quyết tâm chống giặc: “Đầu tôi chưa rơi xuống 
đất, xin bệ hạ đừng lo”. Trần Bình Trọng bị giặc bắt, dụ dỗ đã nói thẳng: “Ta thà làm 
ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Lê Lai vì nghĩa lớn, liều mình cứu Lê Lợi 
và nghĩa quân Lam Sơn; Nguyễn Trung Trực trước lưỡi gươm quân giặc đã khẳng 
định: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”, anh hùng 
Nguyễn Viết Xuân kêu gọi: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Các tấm gương anh 
hùng, liệt sĩ đã tô thắm thêm trang sử vàng của dân tộc.
 Anh hùng Nguyễn Viết Xuân và khẩu hiệu “ Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”
 Lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta còn được thể hiện qua truyền thống đánh 
giặc cứu nước. Từ truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, lịch sử đất nước còn ghi 
lại hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, thể hiện tinh thần đấu tranh anh dũng bất khuất 
kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, tô thắm tình yêu nước sâu đậm. 
Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng đã mở đầu truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung 
hậu, đảm đang” của phụ nữ Việt Nam cho đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thế kỷ XX, dân tộc ta đã chiến thắng hàng chục cuộc tấn công xâm lược 
với quy mô lớn của các thế lục ngoại tộc xấu xa, tàn độc.
 V.I.Lênin từng nói: “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất 
được củng cố hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Lòng 
yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ đó và đã trở thành điểm cốt lõi của 
bản sắc văn hóa Việt Nam, là sợi dây bền chặt gắn bó, gắn kết con người Việt Nam tạo 
thành sức mạnh chống giặc ngoại xâm, giữ gìn bảo vệ non sông bờ cõi, đó chính là nét 
đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam. Chính nhờ sức mạnh diệu kỳ ấy mà dưới 
ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta đã không bị 
khuất phục, không bị đồng hóa mà liên tiếp dựng cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược. 
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã mở ra thời kì độc lập thật sự cho dân tộc, với tinh 
thần bất khuất và ý chí kiên cường ông cha ta đã nhiều lần đánh thắng những kẻ thù 
xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần như: nhà Tiền Lê, nhà Lý chống quân xâm lược 
Tống, nhà Trần ba lần chống quân Mông – Nguyên, thông qua các cuộc chiến tranh 
chống giặc ngoại xâm, lòng yêu nước đã trở thành sợi dây kết nối toàn dân tộc, gắn bó 
cộng đồng để cùng nhau bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nền độc lập của dân tộc, không chịu 
khuất phục trước quân thù. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ 
Chí Minh có đoạn: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, 
nhất định không chịu làm nô lệ”.
 Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938
 Lịch sử thành văn của dân tộc Việt Nam rất hiếm hoi, nhưng không vì thế mà các 
vua Hùng, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, các triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần bị 
lãng quên trong mỗi người dân Việt Nam. Trái lại, càng ít sử liệu thì những quá khứ hào hùng ấy càng bám sâu vào tâm trí của các thế hệ người Việt Nam và được truyền 
từ đời này sang đời khác. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, lòng yêu nước luôn có những biểu 
hiện riêng, do điều kiện lịch sử cụ thể và hệ tư tưởng quy định nhưng mục đích duy 
nhất là bảo vệ và gìn giữ bờ cõi non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
 Sở dĩ một quốc gia bị nước ngoài thống trị và âm mưu đồng hóa hơn bốn ngàn 
năm đã vùng lên và giành lại được quyền tự chủ đó chính là nhờ có lòng yêu nước nồng 
nàn, ý chí độc lập tự do của cư dân người Việt sớm được khẳng định trên cơ sở những 
thành tựu vật chất và tinh thần ngày càng phát triển trong quá trình dựng nước và giữ 
nước trước đó. Ý chí đó ngày càng được bồi đắp vững chắc và phát triển trong quá 
trình bị nô dịch. Truyền thống dựng nước và giữ nước thấm sâu trong lòng nhân dân 
như mạch nước ngầm trong lòng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi xóm làng, 
lặng lẽ đổ vào biển cả tạo thành truyền thống của cả cộng đồng người Việt. Truyền 
thống đó lại được nuôi dưỡng bởi nền văn hóa, văn minh của người Việt định hình và 
phát triển trong thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. Đây cũng là điều kiện hết sức quan trọng 
để đất nước vươn lên giữ vững nền tự chủ, dựng nước thịnh trị trong thời kỳ văn hóa - 
văn minh Đại Việt về sau này.
 “Như nước Đại Việt ta từ trước,
 Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
 Núi sông bờ cõi đã chia,
 Phong tục Bắc Nam cũng khác,
 Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền đọc lập,
 Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
 Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
 Song hào kiệt thời nào cũng có’’ .
 ( Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi )
 Yêu nước của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là 
yêu nước, song đã được nâng lên tầm cao mới, do được tiếp thêm sinh lực và được 
định hướng bởi mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân. Vì vậy, yêu nước đã được 
phát huy đến mức cao nhất, thể hiện ở tinh thần, ý chí: “Không có gì quý hơn độc lập, 
tự do”, “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”, “Tất 
cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; bằng hành động cách mạng 
qua các phong trào: “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay 
súng”, “Tay búa, tay súng”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, 
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước...”. Henri Massis đã từng nhận định rằng: “Tương lai thuộc về những dân tộc nào biết 
giữ được sự đoàn kết, không tạo ra những cuộc nội chiến và biết giữ lấy sự tự do trong 
các mối liên kết của họ.”. Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, hòa thuận, đoàn kết, 
sự hòa đồng là tư tưởng chủ đạo, chi phối. Nó mạnh hơn tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối 
xử. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai tiếng “đồng bào” 
khi đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai 
tiếng thiêng liêng ấy như sức mạnh lôi cuốn, liên kết các thể cộng đồng, dòng giống 
Việt Nam. Trên tinh thần ấy, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh từ “đoàn 
kết” được coi là chìa khóa để mở ra, tạo nên sức mạnh Việt Nam. Cụm từ “đoàn kết” 
được Người nhắc tới hơn 2.000 lần và cụm từ “đại đoàn kết” được Người nhắc tới hơn 
80 lần. Điều đó nói lên sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết, 
đồng thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng đoàn kết của Người. Theo Người, đoàn kết làm 
nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch 
của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”:
 “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
 Thành công, thành công, đại thành công.”
 Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm tinh thần đoàn kết đã tạo nên một sức 
mạnh vô địch và bất diệt, nó nhấn chìm mọi bè lũ bán nước và cướp nước. Tinh thần 
đoàn kết ấy còn được thể hiện ở sự đùm bọc, sẻ chia, yêu thương, cảm thông với những 
người gặp khó khăn, hoạn nạn, ở lối sống “thương người như thể thương thân”:
 “Nhiều điều phủ lấy giá gương
 Người trong một nước phải thương nhau cùng.”
 Ngày nay, quan điểm “đại đoàn kết toàn dân tộc” của Đảng được vận dụng sáng 
tạo trong phòng chống đại dịch Covid-19. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ 
trương, chính sách kịp thời, trong đó việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tính mạng và ổn 
định đời sống của Nhân dân, được đặt lên trên hết, trước hết. Ngay từ khi dịch mới 
bùng phát ngày 30-3-2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi, nêu rõ: 
“Toàn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn 
kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ 
trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng. Mỗi 
người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh.”. Chủ tịch nước 
Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: “Chống dịch như chống giặc” và tuyên bố: “Việt Nam 
chấp nhận hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khỏe, tính mạng của 
người dân.”. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, 
Nhà nước, nhân dân Việt Nam đồng lòng quyết tâm “chống dịch như chống giặc”; tất 
cả các tỉnh, thành phố, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân đều 
vào cuộc, tích cực tham gia phòng, chống dịch Covid-19. Với truyền thống đoàn kết, 
tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách” của dân tộc; tại các tỉnh, thành phố có dịch 
Covid-19, các đơn vị Quân đội chủ động tham gia cùng với các địa phương tiếp tế 
lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nhiều cửa hàng 0 đồng, nhiều chuyến xe nghĩa 
tình, những cây ATM gạo miễn phí được triển khai; cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, 
đơn vị luôn xung kích, đi đầu trong công tác tuyên truyền phòng, chống dịch Covid-
19. Hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” không quản ngại gian khổ làm nhiệm vụ kiểm soát 
chặt chẽ đường biên giới, các tổ dân phố; tổ chức cách ly, tuyên truyền, vận động quần 
chúng nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân không quản khó khăn gian khổ 
thường xuyên duy trì an ninh trật tự, an toàn xã hội tại các vùng dịch nguy hiểm. Tiêu 
biểu nhất là đội ngũ y, bác sĩ phải đối mặt với nguy cơ lây nhiễm cao, ngày đêm điều 
trị cho các bệnh nhân nhiễm bệnh. Huy động sức mạnh của cả nước vào cuộc chiến 
phòng, chống đại dịch Covid-19 với mục tiêu, nhiệm vụ đặt tính mạng của người dân 
và sự an toàn của cộng đồng lên trước hết, trên hết. Nhiều bác sĩ, y tá trẻ xung phong 
vào nơi tâm dịch với mong muốn san sẻ bớt nỗi khó khăn, mệt nhọc của đồng nghiệp. 
Có nhiều bác sĩ đã nghỉ hưu, những sinh viên các trường đại học còn làm đơn tình 
nguyện xung phong lên tuyến đầu chống dịch. Tất cả những việc làm đó đã tiếp tục 
làm cháy mãi ngọn lửa của tinh thần đoàn kết, “tương thân tương ái” của dân tộc Việt 
Nam, làm rực rỡ tình yêu nước nồng nàn của người dân đất Việt.
 Và đặc biệt trong cuộc chiến chống dịch Covid-19, người Việt Nam không chỉ 
bảo vệ mình mà còn chữa trị và chăm sóc người nước ngoài chu đáo và tận tình. Nghĩa 
cử đó được cộng đồng quốc tế và các cơ quan báo chí quốc tế đánh giá rất cao. Đại sứ 
Anh tại Việt Nam, ông Gareth Ward đã nói: “Tôi muốn được gửi lời cảm ơn chân thành 
đến tất cả y, bác sĩ và các cơ quan chính phủ Việt Nam vì đã giúp chúng tôi hỗ trợ các 
công dân Anh mắc Covid-19 trong thời gian qua”. Nhiều cơ quan truyền thông và báo 
chí tại Cộng hòa Séc trong những ngày qua đã đồng loạt đưa tin ca ngợi tấm lòng và 
tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng người Việt tại Séc dành cho chính quyền 
và người dân sở tại trong cuộc chiến chống dịch bệnh Covid-19. Hãng Thông tấn Séc 
ngày 25/3, dẫn lời ông Marcel Winter, Chủ tịch danh dự Hội hữu nghị Séc-Việt đánh 
giá, cộng đồng người Việt là cộng đồng người nước ngoài duy nhất tại Séc đã hỗ trợ 
các bệnh viện, lực lượng ứng cứu và người dân Séc bằng cả vật chất và tài chính trong 
công cuộc phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Đó là lý do tại sao những ngày vừa qua, các hãng truyền thông quốc gia và địa phương cũng như nhiều tờ báo ở Séc như Mlada 
fronta dnes, Lidove noviny đưa tin đậm nét về tình đoàn kết của cộng đồng người 
Việt tại Séc đối với người dân sở tại trong công cuộc phòng chống dịch Covid-19. 
Trước đó, trong bài diễn văn tối 23/3, Thủ tướng Séc Andrej Babis đã ca ngợi tinh thần 
đoàn kết của người dân trong công cuộc phòng chống đại dịch Covid-19. Đó là những 
minh chứng rõ nét về tinh thần bao dung, nhân ái của người Việt Nam.
 Cả nước chung tay chống dịch Covid - 19
 Lòng yêu nước có ở khắp mọi nơi, trên khắp thế giới. Ta biết đến Lorca -là người 
chiến sĩ, là nhà văn, người nghệ sĩ của Tây Ban Nha đã dành trọn cuộc đời ngắn ngủi 
của mình để cống hiến cho đất nước tất cả tài năng nghệ thuật của mình, sự bản lĩnh, 
dũng cảm phản đối gay gắt chế độ độc tài Phát Xít. Dù kết cục của ông vô cùng bi 
thảm, bị xử bắn và chôn mình vào hố chôn tập thể nhưng hào quang về tâm hồn quả 
cảm của ông với đất nước luôn còn mãi. Ngay trên chính đất nước Việt Nam ta lòng 
yêu nước cũng đã ăn sâu vào tiềm thức , từ thuở hai bà Trưng cưỡi voi ra trận , đến 
Nguyễn Ái Quốc – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc bôn ba suốt ba mươi năm ở nước ngoài 
để tìm đường cứu nước, khi trở về Người không khỏi xúc động hôn lấy nắm đất yêu 
dấu của quê hương. Rồi Võ Thị Sáu – nữ anh hùng dũng cảm không chịu khuất phục 
trước kẻ thù khi bị tra tấn, hành hạ, bị xử tử, là anh La Văn Cầu hy sinh thân mình để 
lấp lỗ châu mai, những tấm gương sáng ngời ấy luôn làm chúng ta xúc động và nhớ 
mãi.
 Bên cạnh đó, truyền thống yêu nước ngày nay còn được thể hiện qua việc vừa phát 
triển kinh tế xã hội mà vẫn giữ vững bản sắc, văn hóa dân tộc. Và tấm gương sáng trong công cuộc ấy đó là bà Hồ Thị Con, dân tộc Vân Kiều, bản Bến Đường, xã Trường 
Sơn, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình - người có uy tín, tiêu biểu trong tuyên 
truyền vận động bà con đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc 
văn hóa dân tộc, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, xây dựng Đảng, Chính quyền vững mạnh. 
Bà đã tham mưu cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã tổ chức được 22 buổi 
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho bà con 
ở các bản; vận động bà con trồng mới được 1.274 ha rừng, chủ yếu là cây Keo lai; nhận 
khoanh nuôi, bảo vệ 1.305 ha rừng. Kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh 
hỗ trợ trên mười nghìn suất quà tặng cho các gia đình chính sách, người có công với 
cách mạng, hộ nghèo và các gia đình khi gặp hoạn nạn rủi ro, ốm đau đột xuất trong 
đồng bào dân tộc Vân Kiều, với tổng trị giá trên 1 tỷ đồng; kêu gọi hỗ trợ làm 11 công 
trình phục vụ dân sinh cho 6 bản xa trung tâm xã, với tổng trị giá trên 400 triệu đồng; 
đảm nhận giúp đỡ bản Bến Đường thực hiện thành công mô hình Dân số kế hoạch hoá 
gia đình đạt 3 năm liên không sinh con thứ ba. Mặt khác, bà thường xuyên cung cấp 
thông tin, vận động bà con, tranh thủ vai trò các già làng, trưởng bản, những người có 
uy tín không nghe kẻ xấu, luôn gương mẫu chấp hành, thực hiện tốt các chủ trương, 
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phối hợp với cấp ủy Đảng, chính quyền 
địa phương, Mặt trận, đoàn thể và Đồn biên phòng làng Mô để tuyên truyền, vận động 
bà con trong bản phát huy và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn xã. Bà là 
người gương mẫu trong việc đấu tranh từng bước đẩy lùi các hủ tục lạc hậu trong đồng 
bào Vân Kiều, đặc biệt vận động bà con Vân Kiều xóa bỏ hủ tục lạc hậu như tục “ Nối 
dây” của người thiểu số; giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, gương mẫu xây 
dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa trong cộng đồng dân cư. Các giá trị văn hóa 
truyền thống tốt đẹp của đồng bào được khôi phục và phát huy như: lễ hội cúng mừng 
lúa mới, nhạc cụ tự tạo, phong trào văn hoá, văn nghệ - thể dục thể thao được đẩy 
mạnh. Các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan đã được xóa bỏ; an ninh biên giới, an ninh 
nông thôn, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
 Có thể nói truyền thống yêu nước của dân tộc ta đã hình thành ngay từ thời kì sơ 
khai và được củng cố, duy trì và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử. Truyền thống 
yêu nước đã trở thành niềm tự hào của đất nước, là nét nổi bật trong đời sống tinh thần, 
văn hóa của người Việt, là kho báu quý giá, sức mạnh to lớn của dân tộc. 
 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. 
Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng 
có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho 
những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều 
được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.”. Là một người con 
đất Việt chúng ta phải tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước từ ngàn đời 
nay. Nếu có một ngày, chúng ta có đủ khả năng cống hiến cho lợi ích công cộng, cho 
dân tộc, cho sự nghiệp phát triển đất nước của mình, chúng ta sẽ là người hạnh phúc 
nhất thế giới. Chúng ta là tương lai của đất nước, là người quyết định vận mệnh dân 
tộc. Vì vậy chúng ta hãy thể hiện lòng yêu nước nồng nàn của mình, góp sức mình vào 
công cuộc phát triển dân tộc cả về kinh tế và xã hội. “Tôi chỉ nuối tiếc một điều: tôi chỉ 
có một sinh mệnh hi sinh vì Tổ quốc”- Hale. Chúng ta chỉ sống một lần trên đời, vậy 
nên hãy cống hiến hết mình cho đất nước, kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước 
của dân tộc ta. Tổ quốc quan trọng hơn sinh mệnh, là cha mẹ của chúng ta, là đất đai 
của chúng ta.
 “ Tuổi già phỉ chí công danh,
 Mà lòng yêu nước trung thành không phai.”

File đính kèm:

  • docxbai_du_thi_tim_hieu_ve_lich_su_truyen_thong_yeu_nuoc_cua_dan.docx