Biện pháp Nâng cao hiệu quả tiết dạy môn Tin học THCS
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp Nâng cao hiệu quả tiết dạy môn Tin học THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biện pháp Nâng cao hiệu quả tiết dạy môn Tin học THCS

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BẢN THUYẾT TRÌNH “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TIẾT DẠY MÔN TIN HỌC THCS” Họ và tên : LÊ THỊ HÀ Đơn vị công tác : Trường THCS Duy Nhất Chức vụ : Giáo viên Chuyên môn đào tạo : Sư phạm Tin học Vũ Thư, tháng 02 năm 2023 1. Lý do hình thành biện pháp a. Lý do khách quan Chúng ta đang sống trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay còn gọi thời đại công nghệ 4.0. Xu hướng rõ nét nhất của cuộc cách mạng công nghiệp này là sự kết hợp giữa thế giới ảo và các thực thể, vạn vật kết nối Internet và các hệ thống kết nối Internet để hướng tới công cuộc sản xuất thông minh nhờ vào các đột phá của công nghệ số, mọi thứ đều sẽ thực hiện bằng máy móc và máy vi tính. Chính vì vậy việc tiếp cận công nghệ thông tin hiện nay đang là bước đầu tiếp cận với công nghệ 4.0. Đây là nhu cầu thiết thực và thiết yếu của ngành công nghệ thông tin với nhu cầu của con người. Đặt ra kiến thức về công nghệ thông tin là rất quan trọng. Trong cuộc cách mạng công nghiệp từ lần thứ 3 và đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này thì Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng tới công nghệ thông tin. Ngành giáo dục đã được cập nhật và trang bị ứng dụng công nghệ thông tin một cách thường xuyên nhất, mạnh mẽ nhất để đáp ứng cho yêu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học. Bộ môn Tin học được đưa vào các nhà trường đã giúp học sinh theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đa số học sinh đã được tiếp cận với tin học từ bậc mầm non thông qua các phần mềm ứng dụng để học tập. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em có cơ hội làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến. Trong bộ môn Tin học kỹ năng thực hành của học sinh là rất quan trọng.Vì thế sau mỗi bài học học trò không chỉ nắm được kiến thức lý thuyết mà còn phải thực hành thành thạo các thao tác, sử dụng được các phần mềm ứng dụng để tạo ra được sản phẩm của chính mình. b. Lý do chủ quan * Thuận lợi: - Được sự ủng hộ của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Vũ Thư, Ban Giám Hiệu trường THCS Duy Nhất trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với bộ môn Tin học. - Giáo viên giảng dạy được đào tạo đúng chuyên ngành, nhiệt tình, tận tụy, yêu nghề. - Phần lớn các em học sinh có ý thức học tập, có hứng thú với với bộ môn tin học, luôn tìm tòi những kiến thức mới trong học tập. * Khó khăn: + Các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế. + Số lượng máy tính trong phòng máy còn hạn chế nên học sinh còn phải dùng chung 2,3 em một máy tính. Vì thế một số em không thể thực hành trực tiếp được mà chỉ quan sát bạn khác thực hành hoặc đôi khi được thực hành nhưng rất ít, chính vì vậy mà kỹ năng thực hành của học sinh còn rất hạn chế. 2 + Một bộ phận học sinh chưa coi trọng bộ môn tin học, nhiều em coi đây là môn phụ nên chưa có sự đầu tư thời gian cho việc học tập bộ môn này. + Nguồn kinh phí đầu tư cho việc mua sắm và sửa chữa máy móc còn hạn hẹp, số lượng máy tính có chất lượng tốt để phục vụ cho việc học tập không có nhiều, nên ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn. Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học nói chung, Tin học 9 nói riêng bản thân tôi nhận thấy rằng nhiều học sinh còn yếu về kĩ năng thực hành trên máy tính. Thậm chí còn có một số học sinh còn ngại thực hiện các thao tác trên máy mà chủ yếu là quan sát các học sinh khác trong nhóm thực hành (học sinh khá - giỏi). Do vậy các tiết thực hành đạt hiệu quả chưa thật cao. Từ thực tế trên, tôi bắt đầu chú trọng nhiều hơn tới việc đổi mới phương pháp dạy học sao cho vừa phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, vừa gây hứng thú được cho học sinh và có được kết quả học tập cao nhất. Trong bài báo cáo này tôi xin đưa ra “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết dạy môn Tin học THCS”. 2. Nội dung biện pháp a. Biện pháp 1: Sử dụng trực quan trong giảng dạy Dạy học trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới trong khi ôn tập, củng cố, hệ thống hoá và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Phương pháp trình bày trực quan thể hiện dưới hai hình thức minh hoạ và trình bày. Minh hoạ thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất minh hoạ như bản mẫu, biểu đồ, bức tranh, tranh chân dung các nhà khoa học, hình vẽ trên bảng Trình bày thường gắn liền với việc trình bày những thí nghiệm, những thiết bị kỹ thuật, phim ảnh, băng video .. Dạy học Tin học thường gồm có hai phần cơ bản: Lý thuyết và thực hành, cả hai được kết hợp song song với nhau trong quá trình dạy học, phần lý thuyết Tin học là phần học rất mới đối với đa số học sinh. Vì vậy trong tiết học lý thuyết Tin học thường rất khô khan, có thể nói, sự cung cấp kiến thức thường diễn ra một chiều, bởi vì: đây là một môn học có nhiều khái niệm trừu tượng, nhiều thuật ngữ chuyên ngành mang tính hàn lâm cao. Hơn nữa ngôn ngữ được sử dụng lại huy động nhiều vốn từ tiếng Anh. Vì vậy học sinh khó hiểu, khó hình dung, còn xa lạ với nhiều học sinh. Do đó trong tiết học lý thuyết Tin học rất dễ bị nhàm chán, một số học sinh không theo kịp, không thể tự tìm cho mình kiến thức. Do đó với những bài lý thuyết dạy về các thao tác thực hành, tôi luôn sử dụng trực tiếp phần mềm để vừa dạy lý thuyết vừa thực hành trên máy tính giúp cho học sinh có thể quan sát hình ảnh các hộp thoại, các biểu tượng, các thao tác ..để nắm bắt nội dung kiến thức nhanh nhất. Sau khi học sinh hình dung được các thao tác thực hành thì đại diện của các nhóm lên thực hành (có thể là nhóm trưởng hoặc thành viên trong nhóm). Từ đó giúp các em dễ dàng tiếp nhận được kiến thức. 3 Ngoài ra, trong giờ dạy lý thuyết tôi cũng sắp xếp cho học sinh ngồi vào phòng máy để các em vừa học lý thuyết vừa được thực hành trực tiếp, thao tác này giúp các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn. Việc khai thác tốt các hình ảnh, video . thông qua phương pháp dạy học trực quan cũng là một thao tác quan trọng. Với kĩ thuật này trong quá trình dạy học giáo viên không những giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện được các kĩ năng như: Kỹ năng quan sát, phân tích, dự đoán, so sánh, khái quát, vận dụng để từ đó học sinh nâng cao kỹ năng thực hành và có hứng thú hơn đối với môn học. Do vậy trong quá trình dạy học tôi thường dùng các tranh ảnh, biểu tượng có liên quan để hỗ trợ thêm trong giờ dạy lý thuyết. Ví dụ dạy bài: “Từ máy tính đến mạng máy tính”, tôi chuẩn bị những hình ảnh trực quan sau: + Khi giới thiệu các kiểu kết nối mạng: Quan sát vào các hình ảnh minh họa trên giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề, so sánh giữa các kiểu kết nối để tìm ra được ưu điểm, nhược điểm của các kiểu kết nối, kiểu kết nối nào được sử dụng phổ biến, kiểu kết nối nào đang được sử dụng cho phòng tin học của nhà trường Từ đó học sinh có thể hiểu rõ hơn về khái niệm mạng máy tính. + Khi giới thiệu các thành phần của mạng máy tính: + Các loại dây dẫn: 4 + Mạng không dây: b. Biện pháp 2: Tìm sự hỗ trợ từ học sinh khá - giỏi Học sinh hỗ trợ lẫn nhau là phương pháp thu hút sự tham gia của học sinh, phù hợp với đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay là “dạy ít, học nhiều”. Vào đầu giờ thực hành, tôi chọn những học sinh có kỹ năng thực hành tốt vào nhóm hỗ trợ, sau đó tôi giải thích, hướng dẫn thật kỹ thao tác cho nhóm hỗ trợ đảm bảo cho tất cả các thành viên trong nhóm nắm chắc được kiến thức; sau đó chính các học sinh này sẽ đóng vai người hỗ trợ, có nhiệm vụ giải thích và hướng dẫn các bạn cùng nhóm thực hiện các bài tập do giáo viên giao. Cụ thể như sau: + Bước 1: Nhóm trưởng phân công giao nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm. + Bước 2: Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm, thư ký của nhóm sẽ ghi lại kết quả thảo luận vào phiếu học tập sau khi thống nhất ý kiến trong nhóm. + Bước 3: Báo cáo kết quả thảo luận đại diện nhóm trình bày trước lớp. + Bước 4: Các nhóm khác nhận xét nêu ý kiến, giáo viên theo dõi uốn nắn lúc cần thiết, có thể giáo viên làm trọng tài để phân xử nếu trong quá trình thảo luận các nhóm chưa có sự đồng ý thống nhất. + Bước 5: Giáo viên nhận xét đánh giá kết quả thảo luận của các nhóm đưa ra đáp án đúng. Giải pháp này thể hiện năng lực hợp tác cùng nhau tiến bộ. Trước mỗi hoạt động của các nhóm học tập, giáo viên cần nhắc nhở học sinh thực hiện tốt vai trò của người hỗ trợ và người nhận hỗ trợ. Giáo viên sẽ chỉ ra các điều kiện cần và đủ để đảm bảo cho hoạt động học sinh hỗ trợ lẫn nhau được hiệu quả. Giáo viên cũng cần tìm tòi, quan sát, kiểm tra công việc của nhóm hỗ trợ nếu cần thiết có thể hỗ trợ các em. Những học sinh học tốt sẽ có vai trò hỗ trợ, giải thích. Khi cần thiết có thể đặt câu hỏi và đưa ra phản hồi tại thời điểm thích hợp giúp học sinh nhận hỗ trợ sẽ dễ nắm bắt kiến thức hơn. Phương pháp này giúp các em thoải mái trao đổi những hiểu biết của mình về bài học đồng thời có cơ hội để thảo luận, rèn kỹ năng phối hợp, hợp tác trong hoạt động nhóm. 5 Giáo viên có thể kiểm tra hiệu quả bằng cách chỉ định một học sinh bất kỳ trong nhóm thực hiện các yêu cầu đặt ra của nội dung thực hành. Nếu học sinh được chỉ định không hoàn thành nhiệm vụ, các thành viên còn lại trong nhóm sẽ hỗ trợ bạn. Đây là cách tiếp cận kiến thức chủ động và hiệu quả nhất. Tiếp theo giáo viên có thể cho học sinh trong nhóm kiểm tra kết quả thực hành lẫn nhau. Làm như vậy, học sinh sẽ có ý thức hơn trong thực hành, phát huy được kĩ năng tìm tòi sáng tạo của học sinh. Ngoài ra, trong giờ thực hành giáo viên cũng nên tạo sự tranh đua giữa các nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm nhận xét, chấm điểm của nhau để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực hành. c. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh tự học trên lớp Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động, tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt động đó. Còn tự học có hướng dẫn của giáo viên nghĩa là học sinh nhận nhiệm vụ trực tiếp từ thầy cô, được thầy cô định hướng nội dung bài học sau đó học sinh sẽ tiến hành nhiệm vụ học tập của mình từng bước để có thể khai thác kiến thức một cách khoa học nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất. Trong một số bài học, có các thao tác cụ thể được hướng dẫn trong sách giáo khoa, trước tiên tôi cho học sinh quan sát kết quả của thao tác mà các em sẽ làm và yêu cầu các em tham khảo sách giáo khoa và tự thực hiện thao tác, cuối cùng tôi gọi một số em lên thực hiện lại thao tác. Sau đó giáo viên cho học sinh nhận xét ưu nhược điểm của bài làm. Giáo viên sẽ là người chốt lại kiến thức bài học bằng cách chỉ ra điểm mạnh, điểm sáng tạo, phần hạn chế, nhược điểm ..trong bài làm của học sinh và định hướng kiến thức đúng cho học sinh. Ví dụ như đối với bài thực hành: “Thêm màu sắc cho bài trình chiếu”, tôi đưa ra 4 trang chiếu với 4 kiểu màu nền (đơn sắc, hiệu ứng chuyển màu, mẫu có sẵn và hình nền), sau đó yêu cầu các em nghiên cứu sách giáo khoa và thực hiện thao tác định dạng đã học trong bài lý thuyết sao cho giống với các trang mẫu mà tôi đưa ra, sách giáo khoa hướng dẫn các thao tác rất chi tiết nên các em có thể tự thực hiện yêu cầu giáo viên đưa ra một cách nhanh chóng và dễ dàng. d. Biện pháp 4: Sử dụng các phím tắt để thực hiện một lệnh nào đó Khả năng tiếp thu Tiếng Anh đặc biệt là Tiếng Anh chuyên ngành công nghệ thông tin của học sinh còn rất hạn chế, việc học Tin học đòi hỏi phải thực hành thường xuyên thì mới có thể ghi nhớ được kiến thức, tuy nhiên với các thao tác hầu hết liên quan đến các lệnh tiếng Anh, học sinh lại không có nhiều điều kiện thực hành trên máy thường xuyên, chủ yếu là khoảng thời gian thực hành ở trường nên mặc dù trong lúc thực hành các em thao tác được, nhưng sau một khoảng thời gian không sử dụng các em lại mau quên vì không được thực hành lại thường xuyên và các lệnh cũng rất khó nhớ. Sử dụng phím tắt là giải pháp thay thế khá hiệu quả thay cho việc ghi nhớ các lệnh bằng Tiếng Anh, ngoài ra còn giúp tiết kiệm được thời gian thao tác trên 6 chuột, hình thành tác phong làm việc chuyên nghiệp với máy tính. Trong sách giáo khoa ít đề cập tới việc sử dụng phím tắt nhưng trong quá trình giảng dạy bản thân tôi cũng giới thiệu qua cho học sinh nắm cách sử dụng tổ hợp phím, ví dụ một số tổ phím tắt sau: Ctrl + S: Lưu bài trình chiếu Ctrl + O: Mở bài trình chiếu đã được lưu trong máy Ctrl + N: Tạo bài trình chiếu mới Ctrl + M: Tạo một trang chiếu mới Ctrl + C và Ctrl + V: sao chép đối tượng hoặc trang chiếu Ctrl + X và Ctrl + V: di chuyển đối tượng hoặc trang chiếu Ctrl + B: Tạo kiểu chữ đậm Ctrl + I: Tạo kiểu chữ nghiêng Ctrl + U: Tạo kiểu chữ gạch chân Ctrl + A: Chọn toàn bộ đối tượng trong trang chiếu, hoặc chọn toàn bộ các trang của bài trình chiếu. Ctrl + Z: khôi phục lại thao tác trước đó Ctrl + T: Mở hộp định dạng Font Ctrl + K: Liên kết đối tượng đến trang chiếu khác F5: Bắt đầu bài thuyết trình Shift + F5: Bắt đầu trình chiếu từ slide hiện tại (phím tắt này hữu ích khi muốn kiểm tra slide hiện tại chạy như thế nào trong bài thuyết trình) . Các phím tắt ở các phiên bản phần mềm trong bộ Office cũng gần tương tự nhau việc nhớ các phím tắt thậm chí còn giúp các em thao tác nhanh hơn và dễ ghi nhớ hơn. Việc giúp các em ghi nhớ thao tác bằng các các phím tắt nếu được tiến hành ở Tin học lớp 6 tôi thấy sẽ có hiệu quả rất nhiều do các em mới tiếp xúc với máy tính, nhờ đó hình thành thói quen và nắm vững kiến thức để học các lớp tiếp theo được dễ dàng hơn. e. Biện pháp 5: Sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học linh hoạt - Phương pháp sử dụng trò chơi: Để tạo không khí sôi nổi cho các tiết học tôi thiết kế các câu hỏi dưới dạng trò chơi để học sinh được ôn tập kiến thức bãi cũ trước khi tiếp nhận kiến thức mới. Tôi sử dụng trang tạo câu hỏi trực tuyến Quizz và thiết kế câu hỏi theo mỗi chủ đề và tiến hành chơi vào đầu mỗi buổi học hoặc sau khi kết thúc bài để củng cố phần kiến thức đã học. Với các làm này tôi nhận thấy học sinh rất hào hứng tham gia trờ chơi. Ngoài ra tôi còn áp dụng hình thức chơi trò chơi trong việc kiểm tra thường xuyên giúp tạo bớt áp lực cho các em học sinh đồng thời học sinh nhận được ngay kết quả sau khi kết thúc trò chơi đồng thời phát huy khả năng thao tác với máy tính. 7 - Phương pháp sơ đồ tư duy: Sau mỗi bài học tôi thường cho học sinh củng cố lại kiến thức bài học dưới hình thức vẽ sơ đồ tư duy trên vở hoặc trên máy tính. Với phương pháp này học sinh vừa ôn tập củng cố kiến thức bài học lại vừa được phát huy được năng lực hội họa và trí tưởng tượng của mình vào từng sơ dồ của mỗi học sinh. - Sử dụng linh hoạt các phần mềm trong dạy học: Để phát huy khả năng sử dụng CNTT của học sinh tôi khuyến khích các em học sinh tìm hiểu các phần mềm hỗ trợ học tập: mindmap, padlet (nộp kết quả về trag chung – giáo viên cài đặt chế độ chờ xét duyệt), soạn thảo công thức . 8 f. Biện pháp 6: Kiểm tra và đánh giá Đánh giá là một khâu vô cùng quan trọng trong quá trình dạy học. Đánh giá không chỉ dừng lại ở việc cho học sinh biết kết quả học tập của họ mà đánh giá tốt thực sự thúc đẩy quá trình học tập tích cực của học sinh. Để học sinh tập trung làm bài tập thực hành tốt thì tất cả các giờ thực hành giáo viên đều phải nhận xét và cho điểm học sinh. Tôi thường đánh giá học sinh xung quanh cả ý thức thực hành, hiệu quả thực hành và ý thức cộng tác chia sẻ với các bạn trong nhóm, trong lớp. Ngoài các nhận xét đánh giá của giáo viên, tôi còn tổ chức để học sinh tự đánh giá lẫn nhau nhằm phát triển năng lực thuyết trình trước đám đông, năng lực tự trình bày tư duy phản biện và bảo vệ ý kiến của mình cho học sinh. Hoạt động tự đánh giá nhau thường được thực hiện đối với các bài tập thực hành tổng hợp nhằm đánh giá kiến thức, kỹ năng học sinh đạt được và vận dụng trong các chương hoặc cả năm học. Điểm của học sinh được đánh giá ở thang điểm 10 trong đó 8 điểm về nội dung thực hành và 2 điểm về ý thức của các em trong giờ thực hành. Điểm về nội dung thực hành: Sau khi đã tổng kết, đánh giá giờ thực hành giáo viên yêu cầu học sinh nhanh chóng lưu bài, xếp ghế, chuột, bàn phím gọn gàng và để nguyên bài ở đó để giáo viên tranh chủ chấm trong các giờ ra chơi hoặc trống tiết. Điểm về ý thức thực hành ban đầu tất cả học sinh tại mỗi máy đều được 2 điểm. Nếu không vi phạm các nội quy của phòng máy. Ngược lại nếu học sinh tại máy nào đó vi phạm nội quy thì sẽ bị trừ điểm ví dụ như là vào muộn dưới 5 phút một trừ 0,5 điểm, nói tục trừ 1 điểm, tự do đi lại trong phòng máy trừ 0,5 điểm, làm được riêng trừ 1 điểm Việc làm này nhằm mục đích giúp học sinh có ý thức tích cực phụ thuộc lẫn nhau, hợp tác nhắc nhở cùng nhau tiến bộ. Để tăng cường việc học sinh học hỏi lẫn nhau, tôi khuyến khích cộng điểm cho hai học sinh trong lớp có kỹ năng thực hành tốt nhất đi từng máy trợ giúp các bạn trong lớp khi gặp khó khăn về bài tập của mình. Các bạn này chỉ được phép giảng cho các bạn chứ không được phép làm hộ. Tuy nhiên, không cố định giờ nào cũng là hai bạn này, mà bạn nào cũng có cơ hội được làm người trợ giúp các bạn khác chỉ cần bạn đó có kỹ năng thực hành tốt là được. Từ đó, kích thích học sinh tích cực học tập, rèn luyện kỹ năng thực hành thuần thục, phát huy tốt khả năng giao tiếp hợp tác với các bạn. 3. Kết quả * Với cách thực hiện các giải pháp trên, tôi thu được một số kết quả như sau: Học sinh hứng thú với giờ học nhiều hơn. Chất lượng các giờ học được cải thiện Ý thức học sinh thể hiện ngày càng tốt trong các giờ thực hành Kỹ năng hợp tác làm việc nhóm ngày càng được cải thiện, kỹ năng thuyết trình và phản biện ngày càng được phát huy 9 * Kết quả học tập của sinh khối 9 bộ môn tin học năm học qua như sau: Điểm trung bình môn tin học Năm Tổng số 8.0 - 10 6.5 - 7.9 5.0 - 6.4 3.5 - 4.9 SL % SL % SL % SL % 2021-2022 89 28 31.46 44 49.44 16 17.98 1 1,12 Hk1 2022 - 115 53 46,09 47 40.87 15 13,04 0 0 2023 Từ những kết quả trên cho thấy các biện pháp áp dụng vào việc dạy học Tin học lớp 9 của trường THCS Duy Nhất đã trình bày ở trên đạt được kết quả khá cao trong học tập. 4. Kết luận Để việc học bộ môn Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh cần nắm chắc nội dung lý thuyết, biết thao tác trên máy tính. Bên cạnh đó học sinh cần được học tại phòng máy thường xuyên. Điều này sẽ giúp học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài, vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính theo từng bước cụ thể. Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, luôn có tinh thần rèn luyện, học tập, cầu tiến, cập nhật kiến thức thường xuyên. Việc dạy bộ môn tin học cần phải linh hoạt, trong quá trình dạy học cần phải kết hợp nhiều phương pháp để giúp học sinh nắm vững kiến thức hơn. Các tài liệu, tư liệu minh họa, tranh ảnh cần tìm hiểu sưu tầm và cập nhật thường xuyên để đảm bảo rằng mỗi hình ảnh, mỗi tư liệu, tài liệu mình chuyển tới học sinh đều mang tính chuẩn mực, phù hợp và kịp thời đại. Tôi xin cam đoan giải pháp trên là của tôi, không sao chép của người khác và lần đầu được dùng để đăng ký thi giáo viên dạy giỏi. Nếu sai, tôi hoàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Duy Nhất, ngày 10 tháng 02 năm 2023 NGƯỜI VIẾT BÁO CÁO Lê Thị Hà 10
File đính kèm:
bien_phap_nang_cao_hieu_qua_tiet_day_mon_tin_hoc_thcs.doc