60 Câu hỏi đáp, tình huống pháp luật dành cho học sinh THPT

doc 69 trang Mạnh Nam 07/06/2025 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "60 Câu hỏi đáp, tình huống pháp luật dành cho học sinh THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: 60 Câu hỏi đáp, tình huống pháp luật dành cho học sinh THPT

60 Câu hỏi đáp, tình huống pháp luật dành cho học sinh THPT
 60 CÂU HỎI ĐÁP, TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT 
 (dành cho học sinh Trung học phổ thông)
 Chủ đề 1. Bản chất, vai trò của pháp luật (12 câu)
 Chủ đề tập trung vào các nội dung chính sau: Pháp luật và đời sống; Thực hiện 
pháp luật; Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
 Chủ đề 2. Pháp luật với sự phát triển của công dân (6 câu)
 Các nội dung chính của chủ đề: quyền học tập, sáng tạo của công dân; trách 
nhiệm của nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền học tập, 
sáng tạo và phát triển của công dân...
 Chủ đề 3. Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước (15 câu)
 Các nội dung chính của chủ đề: Pháp luật về phát triển kinh tế, văn hóa, bảo vệ 
môi trường; pháp luật về quốc phòng, an ninh; các quy định của pháp luật về giải 
quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, kiềm chế sự gia tăng dân số, phòng chống tệ 
nạn xã hội...
 Chủ đề 4. Quyền bình đẳng của công dân (15 câu)
 Các nội dung chính của chủ đề: Quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân; 
bình đẳng giới; Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo; Quyền bình đẳng trong 
hôn nhân và gia đình 
 Chủ đề 5. Công dân với các quyền dân chủ (15 câu)
 Các nội dung chính của chủ đề: Quyền bầu cử, quyền ứng cử váo các cơ quan 
đại biểu của nhân dân; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền 
khiếu nại, quyền tố cáo của công dân.
 1 CHỦ ĐỀ 1
 BẢN CHẤT, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT (12 câu)
 Chủ đề tập trung vào các nội dung chính sau: Pháp luật và đời sống; Thực hiện 
pháp luật ; Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý (4 câu)
 1. Pháp luật là gì? Vì sao mỗi công dân cần phải sống và làm việc theo Hiến 
pháp và pháp luật?
 Trả lời
 Khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” đánh dấu một cột 
mốc quan trọng về trình độ văn minh mà xã hội đã đạt được trên tiến trình dân chủ 
hóa xã hội. Tiến trình đó hướng tới mục tiêu cao cả, và cũng là điều mong muốn 
cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, 
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp 
cách mạng thế giới”.
 Điều 12 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
 “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế 
xã hội chủ nghĩa.
 Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân 
dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu 
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
 Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của 
tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
 Để quản lý xã hội, mỗi nhà nước cần phải xây dựng và ban hành hệ thống quy 
tắc xử sự chung áp dụng cho mọi cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã 
hội, làm cho mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức diễn ra trong vòng trật tự, ổn định. 
Hệ thống quy tắc xử sự chung đó được gọi là pháp luật. 
 Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng nhưng cũng 
vô cùng phức tạp chính vì vậy đã có không ít những cách quan niệm, nhận thức khác 
nhau về pháp luật. Trên bình diện phổ quát, căn bản nhất, có thể định nghĩa pháp 
luật như sau:
 2 Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt 
ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận 
các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước nhằm 
điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển 
xã hội.
 Trong hệ thống pháp luật Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu 
lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp. 
Nếu mọi công dân đều thực hiện đúng khẩu hiệu ”Sống và làm việc theo Hiến pháp 
và pháp luật” thì xã hội ngày càng phát triển, cái xấu sẽ bị đẩy lùi, cuộc sống của 
chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn. Do vậy, mỗi công dân cần phải hiểu và nắm vững 
các quy định của pháp luật, có nắm vững thì mới thực hiện đúng pháp luật.
 2. Xin hỏi pháp luật và đạo đức có mối quan hệ với nhau như thế nào?
 Trả lời
 Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều quan niệm, quy tắc đạo đức khác nhau, 
trong đó, pháp luật, một mặt luôn thể hiện quan điểm đạo đức chính thống của giai 
cấp cầm quyền, mặt khác, không thể không phản ánh những quan niệm, chuẩn mực 
ứng xử của những tầng lớp xã hội, những cộng đồng dân cư khác nhau, đặc biệt là 
những quan niệm đạo đức mang tính truyền thống dân tộc sâu sắc. Chính yếu tố đạo 
đức trong nội dung pháp luật làm cho pháp luật trở nên gần gũi hơn, dễ được người 
dân chấp nhận và tuân thủ một cách tự nguyện hơn.Giữa đạo đức và pháp luật có 
mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
 Đạo đức là những quy tắc xử sự của con người, của tập thể và của cộng đồng, 
được hình thành trên cơ sở quan niệm về cái thiện, cái ác, về sự công bằng, về nghĩa 
vụ, lương tâm, danh dự, nhân phẩm và về những phạm trù khác thuộc đời sống tinh 
thần của xã hội. Đạo đức, một khi trở thành niềm tin nội tâm thì sẽ được các cá 
nhân, các nhóm xã hội tuân theo một cách tự giác.
 Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt 
ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận 
các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước nhằm 
điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển 
xã hội.
 3 Trong quá trình xây dựng pháp luật, nhà nước luôn cố gắng đưa những quy 
phạm đạo đức có tính phổ biến, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội vào trong 
các quy phạm pháp luật. Như vậy, trong hàng loạt quy phạm pháp luật luôn thể hiện 
các quan niệm về đạo đức, nhất là pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và 
gia đình, văn hóa, xã hội, giáo dục. Khi đã trở thành nội dung của quy phạm pháp 
luật thì các giá trị đạo đức không chỉ tuân thủ bằng niềm tin, lương tâm của cá nhân 
hay do sức ép của dư luận xã hội mà còn được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng 
sức mạnh quyền lực nhà nước. Do đó, có thể nói, pháp luật là một phương tiện đặc 
thù để thể hiện và bảo vệ các giá trị đạo đức.
 Pháp luật là khuôn mẫu chung cho cách xử sự của mọi người trong hoàn cảnh, 
điều kiện như nhau, là thể hiện cụ thể của công lý, công bằng và giới hạn tự do của 
mỗi người trong việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính 
những giá trị cơ bản của pháp luật – công bằng, bình đẳng, tự do, lẽ phải, cũng là 
những giá trị đạo đức cao cả mà con người luôn hướng tới.
 Pháp luật và đạo đức luôn gắn bó chặt chẽ tác động qua lại với nhau. Pháp luật 
cần được xây dựng trên cơ sở của đạo đức, phù hợp với đạo đức.
 Đạo đức là cơ sở để xây dựng, hình thành các chuẩn mực pháp luật. Có như 
vậy, pháp luật mới dễ dàng đi vào cuộc sống, dễ thực hiện. Nội dung của pháp luật 
phải chứa đựng nội dung, tinh thần của đạo đức. Ngược lại, pháp luật củng cố, bảo 
vệ những tư tưởng, quan điểm, quy tắc đạo đức phù hợp với lợi ích của giai cấp 
thống trị, phù hợp sự phát triển của xã hội ngày một văn minh. Pháp luật hạn chế, 
loại trừ nhũng quy định đạo đức không phù hợp đi ngược với lợi ích của giai cấp 
thống trị, với tiến bộ xã hội. Đồng thời, pháp luật góp phần hình thành những quan 
điểm, quy tắc đạo đức tiến bộ phù hợp xã hội văn minh. Không chỉ có pháp luật, nhà 
nước cũng luôn có ý thức giữ gìn đạo đức, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc. 
Thực tiễn đã chứng minh, đạo đức và pháp luật sẽ phát huy vai trò, tác dụng của 
mình khi chúng có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, tác động cùng chiều, hỗ trợ cho 
nhau trong quản lý đời sống xã hội.
 3. Tại sao nói bản chất của pháp luật vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính 
xã hội sâu sắc?
 Trả lời
 4 Bản chất pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai mặt – hai phương diện cơ 
bản: phương diện giai cấp và phương diện xã hội hay thường được gọi là tính giai 
cấp và tính xã hội. Hai phương diện này có quan hệ mật thiết, phụ thuộc, tác động 
lẫn nhau và cả hai đều mang tính tất yếu khách quan.
 Bản chất của pháp luật là vấn đề thuộc về những dấu hiện bên trong của pháp 
luật, những mục đích của điều chỉnh pháp luật, pháp luật đó bảo vệ những lợi ích 
của ai v.v Pháp luật ngoài việc thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị, là 
công cụ của nhà nước ra còn có vai trò và giá trị xã hội to lớn, không chỉ là sản 
phẩm thuần túy của nhà nước. 
 Về tính giai cấp của pháp luật
 Việc phân tích nguồn gốc của pháp luật đã chứng tỏ, pháp luật ra đời trước hết 
từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp, thể hiện ý 
chí của giai cấp thống trị. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, pháp luật phản ánh 
tương quan lực lượng giữa các giai cấp, sự thỏa hiệp giữa các giai cấp, các nhóm, 
các tập đoàn có lợi ích đối lập nhau. Vì vậy, xét về bản chất, pháp luật luôn mang 
tính giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí 
nhà nước của giai cấp thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản pháp luật, các hoạt 
động áp dụng pháp luật của nhà nước.
 Pháp luật mang bản chất giai cấp sâu sắc vì pháp luật do nhà nước, đại diện cho 
giai cấp cầm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện. Tính giai cấp của pháp luật biểu 
hiện ở các điểm sau đây:
 - Pháp luật là những quy tắc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Giai cấp nào 
nắm quyền lực Nhà nước thì trước hết ý chí của giai cấp đó được phản ánh trong 
pháp luật. 
 Ví dụ: Trong Nhà nước tư sản, pháp luật trước hết phản ánh ý chí của giai cấp 
tư sản. Trong nhà nước ta, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đồng 
thời là ý chí của nhân dân lao động, đại diện đa số người trong xã hội.
 Các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành phù hợp với ý chí của giai cấp 
cầm quyền nhằm định hướng cho xã hội, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi 
ích của nhà nước. Vi phạm pháp luật là xâm hại đến lợi ích của nhà nước – lợi ích 
của giai cấp cầm quyền. Trong những trường hợp đó, nhà nước sẽ sử dụng quyền 
lực có tính cưỡng chế để buộc người vi phạm phải chấm dứt hành vi trái pháp luật.
 5 Bản chất giai cấp là biểu hiện chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào. Tuy nhiên, 
mỗi kiểu pháp luật lại có biểu hiện riêng của nó.
 Ví dụ:
 - Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô và tình 
trạng vô quyền của nô lệ;
 - Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của vua, chúa, 
địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man để đàn áp nôn 
dân, những người nô lệ;
 - Pháp luật tư sản mặc dù quy định cho nhân dân được hưởng các quyền tự do, 
dân chủ, nhưng về cơ bản vẫn thể hiện ý chí và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư 
sản;
 - Pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, mà đại 
diện là nhà nước của nhân dân lao động. Mọi người đều được sống tự do, bình 
đẳng, bảo đảm thực sự dân chủ và công bằng xã hội 
 Về tính xã hội của pháp luật
 Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn có giá trị xã hội rất to lớn. Thuộc tính xã 
hội là một thuộc tính khách quan, tất yếu và phổ biến của pháp luật. Điều đó có 
nghĩa, pháp luật vừa là sự thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã 
hội, vừa là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp khác. Để 
duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội, nhà nước phải quan tâm đến ý chí và lợi 
ích của các giai cấp, các tầng lớp khác trong xã hội, phải giải quyết các vấn đề phát 
sinh trong xã hội như: tội phạm, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, môi trường 
 Pháp luật mang bản chất xã hội vì pháp luật bắt nguồn từ xã hội, do các thành 
viên của xã hội thực hiện, vì phát triển của xã hội. Các quy phạm pháp luật bắt 
nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội, phản ánh những nhu cầu, lợi ích của các giai cấp 
và các tầng lớp trong xã hội, được các cá nhân, các cộng đồng dân cư, các tầng lớp 
khác nhau trong xã hội chấp nhận, coi là chuẩn mực, là quy tắc xử sự chung. Từ đó, 
pháp luật trở thành thước đo của hành vi con người, là công cụ kiểm nghiệm các quá 
trình, các hiện tượng xã hội.
 Các quy phạm pháp luật được thực hiện trong thực tiễn đời sống xã hội vì sự 
phát triển của xã hội. Các hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức, cộng đồng dân cư phù 
hợp với những quy định của pháp luật làm cho xã hội phát triển trong vòng trật tự, 
ổn định, quyền và lợi ích hợp pháp luật của mỗi người đều được tôn trọng.
 6 Tuy nhiên, giá trị xã hội của các kiểu pháp luật khác nhau rất khác nhau: không 
thể so sánh giá trị của pháp luật chủ nô với pháp luật tư sản hoặc pháp luật xã hội 
chủ nghĩa, nhưng nhìn tổng thể thì pháp luật chủ nô cũng đóng vai trò vô cùng quan 
trọng trong quá trình tiến hóa của xã hội. Cùng với sự phát triển lịch sử của pháp 
luật giá trị xã hội của pháp luật ngày càng tăng lên, đặt biệt là đối với pháp luật xã 
hội chủ nghĩa.
 Tóm lại: pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện 
tính xã hội. Hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. 
Do những điều kiện khách quan và chủ quan, sự thể hiện tính giai cấp và tính xã hội 
của pháp luật có khác nhau trong các kiểu nhà nước. 
 4. Sống với nhau được gần 10 năm, nhưng bà H luôn phải nhẫn nhục trước 
ông chồng vũ phu, nóng tính và hay chửi bới, đánh đập vợ con. Sự việc gần đây 
nhất, do không đồng ý trước việc bà H dồn tiền mua cho con gái một cái xe đạp 
để đi học, ông P đánh bà gẫy tay. Biết chuyện, mấy chị em trong Hội liên hiệp 
phụ nữ xã khuyên bà H nên biết dùng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp của mình. Đề nghị cho biết vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội đối 
với mỗi công dân?
 Trả lời
 Pháp luật có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đối với mỗi công dân, 
pháp luật là phương tiện để công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp 
của mình.
 Ở nước ta, các quyền con người về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa và xã hội 
được tôn trọng, được thể hiện ở các quyền công dân, được quy định trong Hiến pháp 
và luật. Hiến pháp quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các luật về 
dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, thuế, đất đai, giáo dục cụ thể hóa nội 
dung, cách thức thực hiện các quyền của công dân trong từng lĩnh vực cụ thể. 
 Như vậy, thông qua các quy định trong các luật và văn bản dưới luật, pháp luật 
xác lập quyền của công dân đồng thời cũng quy định các nghĩa vụ của công dân 
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, công 
dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
 Mặt khác pháp luật là phương tiện để công dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp 
pháp của mình thông qua các luật về hành chính, hình sự, tố tụng, trong đó quy định 
 7 thẩm quyền, nội dung, hình thức, thủ tục giải quyết các tranh chấp, khiếu nại và xử lí 
các vi phạm pháp luật xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
 Mọi hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, lợi ích chính đáng 
của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Pháp luật không chỉ quy định các quyền, 
nghĩa vụ pháp lý của công dân mà còn quy định cơ chế pháp lý, các quy định pháp 
luật, trình tự thủ tục để thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của 
công dân. Các quyền và lợi ích chính đáng của công dân được pháp luật quy định, 
bảo vệ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. 
 5. H (22 tuổi) bị tâm thần từ nhỏ. Trong một lần phát bệnh, H đã đánh gãy 
tay em Q ở gần nhà gây tổn hại sức khỏe 30% cho em. Xin hỏi: hành vi của H có 
phải là vi phạm pháp luật hình sự không?
 Trả lời
 Căn cứ vào khái niệm Tội phạm do Bộ Luật hình sự quy định thì vi phạm pháp 
luật hình sự phải có đầy đủ các dấu hiệu cơ bản sau đây:
 - Là hành vi trái pháp luật được quy định trong Bộ Luật hình sự
 - Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
 - Người vi phạm phải có lỗi cố ý hoặc vô ý
 - Xâm phạm, gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự 
 bảo vệ
 Trong trường hợp này, H đã thực hiện hành vi trái pháp luật, làm tổn hại đến 
sức khỏe của em Q. Tuy nhiên, H bị tâm thần từ nhỏ và thực hiện hành vi gây 
thương tích khi đang phát bệnh. Điều đó có nghĩa H thực hiện hành vi trái pháp luật 
trong tình trạng mà anh ta không nhận thức và điều khiển được hành vi của mình.
 Pháp luật hình sự Việt Nam coi tình trạng của H là không có năng lực trách 
nhiệm hình sự. Cụ thể, Khoản 1, Điều 13, Bộ luật hình sự quy định: “Người thực 
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh 
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì 
không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt 
buộc chữa bệnh.”
 Như vậy, do H là người không có năng lực trách nhiệm hình sự nên hành vi trái 
pháp luật do anh thực hiện không phải là vi phạm pháp luật hình sự
 8 6. Ông Q thường xuyên đi săn với bạn bè. Trong một lần đi săn do nhìn lầm, 
tưởng người là thú nên ông Q đã bắn nhầm làm chết chị M. Khi cơ quan công an 
điều tra, ông Q khai báo rằng mình không cố ý bắn vào chị M, việc chị M bị chết 
là ngoài ý muốn. Đồng thời ông Q lập luận rằng hành vi làm chết chị M không 
phải là vi phạm pháp luật vì không có lỗi cố ý. Xin hỏi: trong trường hợp trên, 
ông Q có lỗi hay không? Hành vi của ông có phải là vi phạm pháp luật không?
 Trả lời
 Lỗi là một trong các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật. Nếu một hành vi 
trái pháp luật được thực hiện mà không có lỗi thì hành vi đó không phải là vi phạm 
pháp luật.
 Theo các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, lỗi được chia thành bốn 
loại:
 - Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm 
cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy 
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra
 - Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho 
xã hội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu 
quả có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả 
xảy ra.
 - Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi 
của mình có thể gây hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ 
không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả 
nguy hại cho xã hội.
 - Lỗi vô ý do cẩu thả: là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả 
nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước được khả năng gây ra 
hậu quả đó mặc dù điều kiện khách quan buộc họ phải thấy trước hậu quả đó.
 Đối với ông Q, tuy ông không cố ý làm chết chị M nhưng ông vẫn có lỗi. Lỗi 
được xác định trong trường hợp này là lỗi vô ý do cẩu thả. Bởi địa điểm đi săn nơi 
thỉnh thoảng có người qua lại nên khi đi săn, ông có trách nhiệm phải quan sát, tránh 
sát thương vào người khác. Nếu như lúc ngắm bắn, ông quan sát kỹ càng và cẩn thận 
hơn thì chắc chắn sẽ không nhầm người là thú và bắn vào chị M. Hành vi bắn vào 
chị M thể hiện sự cẩu thả, thiếu trách nhiệm của ông khi đi săn.
 9 Như vậy, hành vi của ông Q đã có đủ các dấu hiệu của một vi phạm pháp luật. 
Cụ thể, trong trường hợp này, ông đã phạm tội vô ý làm chết người được quy định 
tại Điều 98 Bộ Luật Hình sự:
 “1. Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
 2. Phạm tội làm chết nhiều người thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.”
 7. K đi xe máy phóng nhanh, vượt ẩu nên đâm vào anh C đi ngược chiều. 
Hậu quả là anh C bị chấn thương, tổn hại sức khỏe của anh là 31%; chiếc xe 
máy của anh C bị vỡ nhiều bộ phận do tác động của va chạm. Xin hỏi, trong 
trường hợp này, K phải chịu những loại trách nhiệm pháp lý nào?
 Trả lời
 Một hành vi vi phạm pháp luật có thể phải chịu nhiều loại trách nhiệm pháp lý 
khác nhau. Những loại trách nhiệm pháp lý mà K phải chịu là:
 • Trách nhiệm hình sự:
 Hành vi phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn giao thông của K là tội phạm hình 
sự, được quy định tại Khoản 1, Điều 202 Bộ Luật Hình sự: 
 “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định 
về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại 
nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu 
đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 
sáu tháng đến năm năm.”
 Như vậy, trách nhiệm hình sự mà K phải chịu trong trường hợp này là: K có thể 
bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
 • Trách nhiệm dân sự:
 Ngoài việc phải chịu các hình phạt do tòa án tuyên, K còn phải có trách nhiệm 
bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho anh C theo nguyên tắc được quy định 
tại Khoản 1, Điều 604, Bộ Luật Dân sự 
 “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, 
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm 
 10

File đính kèm:

  • doc60_cau_hoi_dap_tinh_huong_phap_luat_danh_cho_hoc_sinh_thpt.doc