Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BẢN THUYẾT TRÌNH RÈN KĨ NĂNG LÀM DẠNG VĂN TỰ SỰ: “KỂ LẠI MỘT TRUYỀN THUYẾT HOẶC TRUYỆN CỔ TÍCH BẰNG LỜI VĂN CỦA EM” MÔN NGỮ VĂN 6 Họ tên: Phạm Thị Huệ Đơn vị công tác: Trường THCS Bách Thuận Chức vụ: Giáo viên – Chủ tịch công đoàn Chuyên môn đào tạo: Đại học sư phạm Văn Vũ Thư, tháng 02 năm 2023 1 PHẦN I: LÍ DO HÌNH THÀNH BIỆN PHÁP Trong cấp học THCS thì môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có vai trò quan trọng trong việc rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh. Mỗi bài văn mà các em viết ra là một sáng tác. Là kết quả của việc tổng hợp các kiến thức sau: Kiến thức đã học về lí thuyết làm văn, kiến thức về văn học, sự quan sát và cảm nhận cuộc sống xung quanh và kĩ năng sử dụng ngôn từ để diễn đạt. Chính vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên dạy văn là phải rèn cho học sinh kĩ năng làm các dạng bài Tập làm văn. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Ngữ văn 6 đã đưa thể loại truyện truyền thuyết và truyện cổ tích vào ngay những bài học đầu tiên. Đây là loại truyện mang nhiều ý nghĩa trong giáo dục truyền thống, văn hóa của dân tộc, thể hiện được ước mơ về đời sống và công bằng xã hội của nhân dân ta.Vậy làm thế nào để sau khi học xong mỗi văn bản thì học sinh biết cách kể lại các câu chuyện một cách sáng tạo, hấp dẫn. Bởi vì đó cũng là một cách để lưu truyền, giới thiệu tác phẩm đến với nhiều người, nhiều thế hệ nhằm lưu giữ, bảo tồn các sáng tác dân gian. Quá trình dạy-học môn Ngữ văn lớp 6 , tôi đã rút ra một vài kinh nghiệm nhỏ trong giảng dạy văn tự sự nói chung đặc biệt là dạng bài: Kể lại một câu chuyện đã học (đọc) bằng lời văn của em. Vì vậy tôi xin mạnh dạn trao đổi một số kinh nghiệm về việc “Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em”. PHẦN II: NỘI DUNG CỦA BIỆN PHÁP 1.Cơ sở lí luận Trong chương trình Ngữ văn 6, văn tự sự nói chung và dạng văn kể lại một câu chuyện em đã được học (đọc) không phải là thể loại mới vì các em đã được tiếp cận ở bậc Tiểu học. Nhưng ở cấp THCS yêu cầu của một bài văn kể chuyện cao hơn nhiều. Các em không chỉ kể lại câu chuyện theo tình tiết, sự việc, nhân vật vốn có mà còn phải biết sáng tạo, biết vận dụng kiến thức để kể lại một câu chuyện không phụ thuộc hoàn toàn vào văn bản đã học. Điều đó có nghĩa là học sinh phải phát huy được tính tích cực của mình trong bài văn. 2.Cơ sở thực tiễn Kế hoạch thực hiện chương trình Ngữ văn 6 có phần Viết với đề tài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em”. Mặc dù cô giáo đã hướng dẫn trên lớp nhưng khi chấm bài của học sinh thì tôi nhận thấy một thực trạng: Gần như các em có cách viết giống với câu chuyện các em đã được học (đọc), tức là các em đã phụ thuộc quá nhiều vào văn bản, không kể được theo đúng yêu cầu của đề bài. 3)Các bước tiến hành cụ thể Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu yêu cầu của đề bài -Tìm hiểu đề là để giúp học sinh xác định đúng trọng tâm yêu cầu của đề bài tránh làm lạc đề, lệch đề. Muốn các em thực hiện hiệu quả bước này, giáo viên yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài và phải gạch chân được các từ ngữ quan trọng thể hiện yêu cầu đó. Ví dụ: Giáo viên chép đề bài sau lên bảng: Đề bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em Giáo viên hỏi học sinh: Đề bài trên có mấy yêu cầu. Gạch chân hoặc xác định các từ ngữ thể hiện các yêu cầu đó? Đề trên có 3 yêu cầu: +Dạng bài: Kể chuyện (Thể hiện qua cụm từ “Kể lại”) + Nội dung kể: Một câu chuyện truyền thuyết hoặc cổ tích. (Thể hiện qua cụm từ “một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích”) + Cách kể: Bằng lời văn của em (Thể hiện qua cụm từ “bằng lời văn của em”) Giáo viên có thể giải thích thêm để học sinh hiểu hơn: - Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích: Các em có thể lựa chọn các câu chuyện truyền thuyết hoặc cổ tích hay nhất, ý nghĩa nhất mà mình được đọc (học). Tuy nhiên nếu thời lượng làm bài có hạn thì các em nên chọn các câu chuyện có dung lượng vừa phải, truyện không quá dài để đảm bảo về thời gian, về sự trọn vẹn của bài văn. - Kể bằng lời văn của em: Là kể bằng lời của mình, không phụ thuộc vào văn bản, không sao chép y nguyên văn bản. Tuy nhiên khi làm bài, các em cần lưu ý: Lời văn và cách diễn đạt của câu chuyện có thể thay đổi nhưng phải tôn trọng nội dung, cốt truyện của văn bản đã đọc (học). Đây chính là điểm mấu chốt của của dạng bài này. Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý *Xác định sự việc chính, nhân vật chính Để hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em, giáo viên gợi mở cho học sinh: -Nhớ lại câu chuyện mà em định kể và xác định sự việc chính, nhân vật chính trong các câu chuyện. -Giáo viên có thể giải thích thêm để các em hiểu và nắm được về hai khái niệm sự việc chính, nhân vật chính. Cụ thể: +Nhân vật chính: Là nhân vật xuất hiện từ đầu cho đến cuối truyện, được thể hiện nhiều nhiều phương diện (lai lịch, nguồn gốc, hình dáng, tài năng, cử chỉ, hành động, lời nói,...) đặc biệt là được tập trung kể nhiều về cử chỉ, hành động. Nhân vật chính góp phần thể hiện ý nghĩa của câu chuyện. + Sự việc chính: Là những sự việc xuyên suốt câu chuyện, xoay quanh cốt truyện và nhân vật chính. Sự việc chính rất quan trọng vì nếu thiếu đi một sự việc chính thì câu chuyện sẽ bị ngắt quãng, không liền mạch và người đọc sẽ không hiểu được câu chuyện một cách trọn vẹn. Để học sinh dễ hiểu, giáo viên cho các em thực hành kĩ năng xác định sự việc chính và nhân vật chính bằng cách phân chia nhóm lớp và thực hiện các yêu cầu sau: -Nhóm 1: Tìm nhân vật chính, sự việc chính trong truyện truyền thuyết “Thánh Gióng”. -Nhóm 2: Tìm nhân vật chính, sự việc chính trong truyện cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng”. Sau khi đã hiểu khái niệm nhân vật chính, sự việc chính, học sinh có thể tìm đọc lại các câu chuyện và xác định được các sự việc chính, nhân vật chính của truyện như sau: Truyện truyền thuyết “Thánh Gióng”: + Nhân vật chính là: Thánh Gióng. + Chuỗi sự việc chính trong truyện: (1) Hoàn cảnh ra đời khác thường của Gióng. (2) Gióng xin đi đánh giặc và lớn nhanh như thổi. (3) Gióng ra trận đánh giặc. (4) Giặc tan, Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời. (5) Vua ghi nhớ công ơn Thánh Gióng phong tước vị và lập đền thờ. (6) Gióng còn để lại nhiều dấu tích trên quê hương. Truyện cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng” + Nhân vật chính là: Người con (cô bé) + Chuỗi sự việc chính trong truyện: (1) Giới thiệu về cuộc sống của hai mẹ con người phụ nữ nghèo. (2) Một hôm người mẹ ốm nặng, cô bé vội đi tìm thầy thuốc về trị bệnh cho mẹ (3) Trên đường đi, cô bé đã gặp một cụ già râu tóc bạc phơ tự nhận mình là thầy thuốc. (4) Cô bé dẫn cụ về nhà khám bệnh cho mẹ, cụ già bảo cô bé đi hái một bông hoa trắng trong rừng về làm vị thuốc và nói: “Bông hoa có bao nhiêu cánh thì mẹ con sống bấy nhiêu ngày”. (5) Cô bé lặn lội và được bông hoa trắng tuyệt đẹp nhưng nó chỉ có hai mươi cánh. (6) Trên đường về, cô bé đã tước mỗi cánh hoa thành nhiều sợi nhỏ với ước mong mẹ khỏi bệnh và sống lâu hơn. (7) Nhờ vậy người mẹ đã lành bệnh và người đời gọi bông hoa đó là hoa cúc trắng. Như vậy sau khi học sinh xác định được về nhân vật chính, sự viẹc chính là các em đã nhớ và hình dung được cốt truyện của văn bản cần kể. Trên cơ sở đó, giáo viên sẽ hướng dẫn tiếp học sinh. *Lựa chọn cách kể để thể hiện câu chuyện bằng lời văn của em: Giáo viên cung cấp cho học sinh các cách sau để các em có thể kể chuyện bằng lời văn của mình: + Thay đổi ngôi kể (Từ ngôi kể vốn có của câu chuyện – ngôi thứ 3- sang ngôi kể thứ nhất bằng cách nhập vai nhân vật trong truyện, xưng “tôi” và kể lại câu chuyện theo điểm nhìn của mình). + Thay đổi lời kể, cách xưng hô trong câu chuyện cho phù hợp với ngôi kể. Ví dụ: Em dự định sẽ nhập vai vào nhân vật bà mẹ của Gióng trong truyền thuyết “Thánh Gióng” để kể lại câu chuyện ở ngôi thứ nhất thì ngoài việc lời kể sẽ thay đổi theo cái nhìn của bà mẹ thì cách người kể chuyện gọi các nhân vật khác trong chuyện cũng thay đổi theo cho phù hợp. Ví như: -Bà mẹ (người kể chuyện) gọi nhân vật ông lão là: Chồng tôi, ông nhà tôi, chúng tôi. - Bà mẹ (người kể chuyện) gọi nhân vật Thánh Gióng là: Gióng, con trai tôi, đứa con yêu quý của tôi, thằng bé,... + Thay đổi từ ngữ của lời văn trong truyện em đọc bằng các từ ngữ em dùng. + Thay đổi cấu trúc một số câu văn, thứ tự một số sự việc cho phù hợp với điểm nhìn của người kể chuyện. + Thêm lời thoại, thêm yếu tố miêu tả để câu chuyện sinh động hơn Ví dụ: Đoạn đầu của câu chuyện “Sự tích hoa cúc trắng” như sau: “Ngày xưa, có hai mẹ con nhà nọ sống trong một cái lều nơi xóm vắng. Người chồng mất sớm, nên mẹ con làm lụng vất vả lắm mới đủ ăn. Hằng ngày gà chưa gáy sáng bà mẹ đã phải dậy làm việc cho đến đêm khuya. Giáo viên hướng dẫn học sinh kể lại bằng lời văn của em đoạn truyện trên như sau: Từ rất xa xưa, người ta vẫn kể cho nhau nghe rằng có hai mẹ con người đàn bà góa sống nghèo khổ trong một túp lều rách nát nơi miền sơn cước. Vì người chồng chẳng may lâm bệnh nặng và qua đời sớm nên người mẹ trẻ phải sớm khuya tần tảo dãi nắng dầm mưa mới lo đủ cái ăn cho hai mẹ con. Ngày ngày, trời nắng cũng như trời mưa, ấm áp hay giá lạnh, bà mẹ cũng đều dậy rất sớm từ khi gà chưa gáy vào rừng chặt củi, tìm măng, phát nương, làm rẫy. Bà làm việc không ngừng nghỉ đến khi màn đêm buông xuống mới nghỉ tay. +Thêm yếu tố biểu cảm (cảm xúc, tâm trạng) để câu chuyện được tự nhiên, chân thực đặc biệt là khi kể theo ngôi thứ nhất. Ví dụ: Nhập vai vào nhân vật Thánh Gióng ở ngôi thứ nhất để kể lại truyện thì ở phần cuối câu chuyện khi Gióng và ngựa sắt dừng chân trên đỉnh núi Sóc, người kể chuyện thể hiện tâm trạng của mình ví như: Dừng lại rất lâu trên đỉnh núi, dõi đôi mắt lặng nhìn về phía xa xa nơi có túp lều tranh nơi mình đã ra đời và lớn lên; hình dung hình ảnh cha mẹ già đang dõi mắt ngóng trông tin con trở về; nỗi niệm bâng khuâng, nhớ thương trào dâng trong lòng, nước mắt chảy dài lăn trên gò má; quỳ lại mẹ cha, nói lời từ biệt và cưỡi ngựa sắt về trời. Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn bài Bước lập dàn bài rất gần và sát với phần Viết bài. Vì vậy ý tưởng, cách viết bài của người viết cũng dần được bộc lộ cụ thể và rõ nét hơn. Người viết cần xác định được ngôi kể và thứ tự kể . Từ đó sắp xếp các sự việc đã lựa chọn trong bước lập ý theo một trật tự nhất định, sự việc nào kể trước, sự việc nào kể sau theo diễn biến câu chuyện để người đọc dễ theo dõi và hiểu câu chuyện. Giáo viên hướng dẫn và yêu cầu học sinh thực hành lập dàn bài cho các đề bài sau: - Đề 1 - Nhóm 1: Kể lại truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời văn của em (Sử dụng ngôi kể thứ nhất, trình tự kể không theo thời gian). - Đề 2 - Nhóm 2: Kể lại truyện truyền cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng” bằng lời văn của em (Sử dụng ngôi kể thứ ba, trình tự kể thời gian). *Dàn bài : Kể lại truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời văn của em (Sử dụng ngôi kể thứ nhất, trình tự kể không theo thời gian). a.Mở bài: -Nhập vai vào nhân vật bà mẹ của Gióng ở ngôi thứ nhất , xưng tôi, giới thiệu về mình và hồi tưởng lại câu chuyện về đứa con yêu quý. b. Thân bài: Người kể chuyện (bà mẹ Gióng) thay đổi cách xưng hô, cách gọi các nhân vật khác trong truyện và được bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của mình cho phù hợp với ngôi kể thứ nhất nhưng vẫn phải đảm bảo các sự việc chính của truyện. Ví dụ: (1) Tôi và chồng tuổi đã cao mà chưa có con nhưng một lần ướm thử vào vết chân to, tôi đã mang thai và sinh ra một đứa bé trai bụ bẫm. (2) Lên ba mà con tôi vẫn không nói cười cũng chẳng biết đi nên chúng tôi buồn lắm. (3) Giặc Ân xâm lược bờ cõi, vua sai sứ giả đi tìm người đánh giặc cứu nước. (4) Con tôi cất tiếng nói đòi đi đánh giặc khiến chúng tôi kinh ngạc vô cùng. (5) Từ sau đó nó ăn uống nhiều vô kể và lớn nhanh như thổi nên dân làng phải chung tay giúp vợ chồng tôi nuôi con. (6) Giặc đến, con tôi vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt xông trận. (7) Thắng giặc Gióng nhà tôi đã cưỡi ngựa sắt bay về trời. (8) Vua nhớ công ơn phong cho con trai tôi là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà. c. Kết bài: - Người kể chuyện (mẹ Gióng) bày tỏ cảm xúc, tâm trạng, mong muốn của mình. *Dàn bài : Kể lại truyện cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng” bằng lời văn của em (Sử dụng ngôi kể thứ ba, trình tự kể thời gian). Đề bài này yêu cầu học sinh vẫn giữ nguyên ngôi kể và trình tự kể giống như trong câu chuyện các em đã đọc nên khi làm bài các em sẽ chú trọng vào thay đổi theo hướng sau để bài văn không bị sao chép y nguyên từ văn bản đã học: + Thay đổi từ ngữ của lời văn trong truyện em đọc bằng các từ ngữ em dùng. + Thay đổi cấu trúc một số câu văn. + Thêm lời thoại, thêm yếu tố miêu tả để câu chuyện sinh động hơn a.Mở bài: -Người kể sẽ đứng ngoài dõi theo câu chuyện và bắt đầu kể về gia cảnh, cuộc sống của hai mẹ con người phụ nữ nghèo b. Thân bài: Đảm bảo các sự việc sau và dự kiến cách kể bằng lời văn của em. (1) Một hôm người mẹ ốm nặng, cô bé vội đi tìm thầy thuốc về trị bệnh cho mẹ (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, đổi cấu trúc câu, thêm yếu tố miêu tả) (2) Trên đường đi, cô bé đã gặp một cụ già râu tóc bạc phơ tự nhận mình là thầy thuốc. (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời thoại cho nhân vật) (3) Cô bé dẫn cụ về nhà khám bệnh cho mẹ, cụ già bảo cô bé đi hái một bông hoa trắng trong rừng về làm vị thuốc và nói: “Bông hoa có bao nhiêu cánh thì mẹ con sống bấy nhiêu ngày”. (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời thoại cho nhân vật) (4) Cô bé lặn lội và được bông hoa trắng tuyệt đẹp nhưng nó chỉ có hai mươi cánh. (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời độc thoại nội tâm cho nhân vật) (5) Trên đường về, cô bé đã tước mỗi cánh hoa thành nhiều sợi nhỏ với ước mong mẹ khỏi bệnh và sống lâu hơn. (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời thoại cho nhân vật) c. Kết bài: Khép lại bài văn bằng sự việc kết thúc câu chuyện Từ 2 dàn bài minh họa trên, học sinh sẽ nắm được có 2 hướng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em.: + Kể lại câu chuyện bằng lời văn của em theo ngôi thứ nhất và trình tự không theo thời gian. + Kể lại câu chuyện bằng lời văn của em theo ngôi thứ ba và theo trình tự thời gian. Qua đó các em định hình cho phần Viết bài. Bước 4: Viết bài Phần viết bài là kết quả của các bước 1,2,3. Các em sẽ bám sát vào định hướng trong bước lập dàn bài kết hợp với sự hiểu biết và vốn ngôn ngữ của mình để hoàn thành bài làm của mình. Ví dụ : Bài văn kể lại truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời văn của em. Tôi sống ở làng Phù Đổng tục gọi là làng Gióng. Tôi đã sinh ra một đứa bé vô cùng kì lạ nhưng khi lớn lên nó đã trở thành một người anh hùng đã có công đánh giặc Ân cứu nước. Câu chuyện như sau. Vào thời vua Hùng thứ sáu, đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm no hạnh phúc. Thế nhưng vợ chồng già chúng tôi chứ cui cút trong gian nhà tranh vắng tiếng trẻ con. Một hôm, tôi đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần thì vừa thấy thần báo mộng trong đêm, tôi đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà tôi đã có mang. Chờ hết chín tháng mười ngày mà tôi vẫn chưa sinh nên ông nhà tôi lo quá. Nhưng đến tháng mười hai thì vợ chồng tôi đã có con. Chao ôi, một đứa bé mặt mũi khôi ngô như một tiên đồng. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng chăm chút hoài mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà nó không biết đi, không biết nói, biết cười. Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng đang kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Thằng bé nhà tôi bỗng níu tay áo, và nó cất tiếng: “Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Hai vợ chồng tôi bàng hoàng nhìn nhau, tôi vội chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như phán truyền: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ phá tan giặc!”. Sứ giả sửng sốt rồi kính cẩn chào chúng tôi ra về. Tôi và chồng tôi chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội ca, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người. Giặc đã đến chân núi Châu Sơn. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. Cũng may nhà vua đã cho đưa đến con ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt. Thằng bé bỗng đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh mẽ khác thường. Nó mặc giáp sắt, cầm roi sắt và leo lên ngựa sắt. Nó vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một luồng bão lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà Trời. Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc. Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì nó đã cầm roi sắt tả xung hữu đột vào giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì roi sắt va vào núi và bị gãy. Gióng nhà tôi mới nhổ bụi tre bên đường quật một đám tan quân còn lại. Nó truy đuổi giặc đến núi Minh Sóc và tại đây có cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tảng đá rồi cùng ngựa sắt bay về Trời. Mọi người đã lập đền thờ ngay trong làng. Và vua Hùng cũng phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương. Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. Chính ngựa Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy. Và bà con có biết không? Những ao hồ chi chít ở địa phương ta là dấu chân của con ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi đấy. Tôi cũng muốn lưu ý mọi người cái làng Cháy hiện nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Gióng phun lựa và đốt trụi cả một làng. Cũng may là bà con đã chạy giặc hết rồi không thì thật là thảm họa. Vợ chồng tôi rất tự hào vì đã có một đứa con dũng cảm giết giặc bảo vệ cuộc sống ấm no cho mọi người. Chúng tôi thật tự hào bởi mỗi lúc ra đường mọi người đều kính nể và nói: "Hai người ấy là cha mẹ của Phù Đổng Thiên Vương đó". Đó bà con hãy chờ coi, thằng Gióng nhà tôi trước lúc bay về trời có nhắn rằng khi nào cha mẹ già yếu nó
File đính kèm:
bien_phap_ren_ki_nang_lam_dang_bai_ke_lai_mot_truyen_truyen.doc