Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em

doc 12 trang Mạnh Nam 05/06/2025 240
Bạn đang xem tài liệu "Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em

Biện pháp Rèn kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em
 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 BẢN THUYẾT TRÌNH
RÈN KĨ NĂNG LÀM DẠNG VĂN TỰ SỰ: “KỂ LẠI MỘT TRUYỀN THUYẾT 
 HOẶC TRUYỆN CỔ TÍCH BẰNG LỜI VĂN CỦA EM”
 MÔN NGỮ VĂN 6
 Họ tên: Phạm Thị Huệ
 Đơn vị công tác: Trường THCS Bách Thuận
 Chức vụ: Giáo viên – Chủ tịch công đoàn
 Chuyên môn đào tạo: Đại học sư phạm Văn
 Vũ Thư, tháng 02 năm 2023
 1 PHẦN I: LÍ DO HÌNH THÀNH BIỆN PHÁP
 Trong cấp học THCS thì môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói 
riêng có vai trò quan trọng trong việc rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh. Mỗi 
bài văn mà các em viết ra là một sáng tác. Là kết quả của việc tổng hợp các kiến thức 
sau: Kiến thức đã học về lí thuyết làm văn, kiến thức về văn học, sự quan sát và cảm 
nhận cuộc sống xung quanh và kĩ năng sử dụng ngôn từ để diễn đạt. Chính vì vậy một 
nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên dạy văn là phải rèn cho học sinh kĩ năng làm 
các dạng bài Tập làm văn.
 Theo chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Ngữ văn 6 đã đưa thể loại truyện 
truyền thuyết và truyện cổ tích vào ngay những bài học đầu tiên. Đây là loại truyện 
mang nhiều ý nghĩa trong giáo dục truyền thống, văn hóa của dân tộc, thể hiện được 
ước mơ về đời sống và công bằng xã hội của nhân dân ta.Vậy làm thế nào để sau khi 
học xong mỗi văn bản thì học sinh biết cách kể lại các câu chuyện một cách sáng tạo, 
hấp dẫn. Bởi vì đó cũng là một cách để lưu truyền, giới thiệu tác phẩm đến với nhiều 
người, nhiều thế hệ nhằm lưu giữ, bảo tồn các sáng tác dân gian.
 Quá trình dạy-học môn Ngữ văn lớp 6 , tôi đã rút ra một vài kinh nghiệm nhỏ trong 
giảng dạy văn tự sự nói chung đặc biệt là dạng bài: Kể lại một câu chuyện đã học (đọc) 
bằng lời văn của em. Vì vậy tôi xin mạnh dạn trao đổi một số kinh nghiệm về việc “Rèn 
kĩ năng làm dạng bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của 
em”.
PHẦN II: NỘI DUNG CỦA BIỆN PHÁP
1.Cơ sở lí luận
 Trong chương trình Ngữ văn 6, văn tự sự nói chung và dạng văn kể lại một câu 
chuyện em đã được học (đọc) không phải là thể loại mới vì các em đã được tiếp cận ở 
bậc Tiểu học. Nhưng ở cấp THCS yêu cầu của một bài văn kể chuyện cao hơn nhiều. 
Các em không chỉ kể lại câu chuyện theo tình tiết, sự việc, nhân vật vốn có mà còn phải 
biết sáng tạo, biết vận dụng kiến thức để kể lại một câu chuyện không phụ thuộc hoàn 
toàn vào văn bản đã học. Điều đó có nghĩa là học sinh phải phát huy được tính tích cực 
của mình trong bài văn. 2.Cơ sở thực tiễn
 Kế hoạch thực hiện chương trình Ngữ văn 6 có phần Viết với đề tài: Kể lại một 
truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em”. Mặc dù cô giáo đã hướng dẫn 
trên lớp nhưng khi chấm bài của học sinh thì tôi nhận thấy một thực trạng: Gần như các 
em có cách viết giống với câu chuyện các em đã được học (đọc), tức là các em đã phụ 
thuộc quá nhiều vào văn bản, không kể được theo đúng yêu cầu của đề bài.
 3)Các bước tiến hành cụ thể
 Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu yêu cầu của đề bài
 -Tìm hiểu đề là để giúp học sinh xác định đúng trọng tâm yêu cầu của đề bài tránh làm 
lạc đề, lệch đề. Muốn các em thực hiện hiệu quả bước này, giáo viên yêu cầu học sinh 
phải đọc kĩ đề bài và phải gạch chân được các từ ngữ quan trọng thể hiện yêu cầu đó.
 Ví dụ: Giáo viên chép đề bài sau lên bảng:
Đề bài: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em
 Giáo viên hỏi học sinh: Đề bài trên có mấy yêu cầu. Gạch chân hoặc xác định các 
từ ngữ thể hiện các yêu cầu đó?
 Đề trên có 3 yêu cầu: +Dạng bài: Kể chuyện (Thể hiện qua cụm từ “Kể lại”)
 + Nội dung kể: Một câu chuyện truyền thuyết hoặc cổ tích.
 (Thể hiện qua cụm từ “một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích”) 
 + Cách kể: Bằng lời văn của em
 (Thể hiện qua cụm từ “bằng lời văn của em”)
Giáo viên có thể giải thích thêm để học sinh hiểu hơn:
- Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích: Các em có thể lựa chọn các câu chuyện 
truyền thuyết hoặc cổ tích hay nhất, ý nghĩa nhất mà mình được đọc (học). Tuy nhiên 
nếu thời lượng làm bài có hạn thì các em nên chọn các câu chuyện có dung lượng vừa 
phải, truyện không quá dài để đảm bảo về thời gian, về sự trọn vẹn của bài văn.
- Kể bằng lời văn của em: Là kể bằng lời của mình, không phụ thuộc vào văn bản, 
không sao chép y nguyên văn bản. 
 Tuy nhiên khi làm bài, các em cần lưu ý: Lời văn và cách diễn đạt của câu chuyện 
có thể thay đổi nhưng phải tôn trọng nội dung, cốt truyện của văn bản đã đọc (học). Đây 
chính là điểm mấu chốt của của dạng bài này. Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý
 *Xác định sự việc chính, nhân vật chính
 Để hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ 
tích bằng lời văn của em, giáo viên gợi mở cho học sinh:
-Nhớ lại câu chuyện mà em định kể và xác định sự việc chính, nhân vật chính trong các 
câu chuyện.
 -Giáo viên có thể giải thích thêm để các em hiểu và nắm được về hai khái niệm sự việc 
chính, nhân vật chính. Cụ thể: 
+Nhân vật chính: Là nhân vật xuất hiện từ đầu cho đến cuối truyện, được thể hiện nhiều 
nhiều phương diện (lai lịch, nguồn gốc, hình dáng, tài năng, cử chỉ, hành động, lời 
nói,...) đặc biệt là được tập trung kể nhiều về cử chỉ, hành động. Nhân vật chính góp 
phần thể hiện ý nghĩa của câu chuyện. 
+ Sự việc chính: Là những sự việc xuyên suốt câu chuyện, xoay quanh cốt truyện và 
nhân vật chính. Sự việc chính rất quan trọng vì nếu thiếu đi một sự việc chính thì câu 
chuyện sẽ bị ngắt quãng, không liền mạch và người đọc sẽ không hiểu được câu chuyện 
một cách trọn vẹn.
 Để học sinh dễ hiểu, giáo viên cho các em thực hành kĩ năng xác định sự việc chính 
và nhân vật chính bằng cách phân chia nhóm lớp và thực hiện các yêu cầu sau:
 -Nhóm 1: Tìm nhân vật chính, sự việc chính trong truyện truyền thuyết “Thánh Gióng”.
-Nhóm 2: Tìm nhân vật chính, sự việc chính trong truyện cổ tích “Sự tích hoa cúc 
trắng”.
Sau khi đã hiểu khái niệm nhân vật chính, sự việc chính, học sinh có thể tìm đọc lại các 
câu chuyện và xác định được các sự việc chính, nhân vật chính của truyện như sau:
 Truyện truyền thuyết “Thánh Gióng”:
 + Nhân vật chính là: Thánh Gióng.
 + Chuỗi sự việc chính trong truyện:
 (1) Hoàn cảnh ra đời khác thường của Gióng.
 (2) Gióng xin đi đánh giặc và lớn nhanh như thổi.
 (3) Gióng ra trận đánh giặc.
 (4) Giặc tan, Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt bay về trời. (5) Vua ghi nhớ công ơn Thánh Gióng phong tước vị và lập đền thờ.
 (6) Gióng còn để lại nhiều dấu tích trên quê hương.
 Truyện cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng”
 + Nhân vật chính là: Người con (cô bé)
 + Chuỗi sự việc chính trong truyện:
 (1) Giới thiệu về cuộc sống của hai mẹ con người phụ nữ nghèo.
 (2) Một hôm người mẹ ốm nặng, cô bé vội đi tìm thầy thuốc về trị bệnh cho mẹ
 (3) Trên đường đi, cô bé đã gặp một cụ già râu tóc bạc phơ tự nhận mình là thầy 
 thuốc.
 (4) Cô bé dẫn cụ về nhà khám bệnh cho mẹ, cụ già bảo cô bé đi hái một bông hoa 
 trắng trong rừng về làm vị thuốc và nói: “Bông hoa có bao nhiêu cánh thì mẹ 
 con sống bấy nhiêu ngày”.
 (5) Cô bé lặn lội và được bông hoa trắng tuyệt đẹp nhưng nó chỉ có hai mươi cánh.
 (6) Trên đường về, cô bé đã tước mỗi cánh hoa thành nhiều sợi nhỏ với ước mong 
 mẹ khỏi bệnh và sống lâu hơn.
 (7) Nhờ vậy người mẹ đã lành bệnh và người đời gọi bông hoa đó là hoa cúc trắng.
 Như vậy sau khi học sinh xác định được về nhân vật chính, sự viẹc chính là các em đã 
nhớ và hình dung được cốt truyện của văn bản cần kể. Trên cơ sở đó, giáo viên sẽ 
hướng dẫn tiếp học sinh.
*Lựa chọn cách kể để thể hiện câu chuyện bằng lời văn của em:
 Giáo viên cung cấp cho học sinh các cách sau để các em có thể kể chuyện bằng lời 
văn của mình:
 + Thay đổi ngôi kể (Từ ngôi kể vốn có của câu chuyện – ngôi thứ 3- sang ngôi kể 
thứ nhất bằng cách nhập vai nhân vật trong truyện, xưng “tôi” và kể lại câu chuyện theo 
điểm nhìn của mình).
 + Thay đổi lời kể, cách xưng hô trong câu chuyện cho phù hợp với ngôi kể.
 Ví dụ: Em dự định sẽ nhập vai vào nhân vật bà mẹ của Gióng trong truyền thuyết 
“Thánh Gióng” để kể lại câu chuyện ở ngôi thứ nhất thì ngoài việc lời kể sẽ thay đổi 
theo cái nhìn của bà mẹ thì cách người kể chuyện gọi các nhân vật khác trong chuyện 
cũng thay đổi theo cho phù hợp. Ví như: -Bà mẹ (người kể chuyện) gọi nhân vật ông lão là: Chồng tôi, ông nhà tôi, chúng tôi.
- Bà mẹ (người kể chuyện) gọi nhân vật Thánh Gióng là: Gióng, con trai tôi, đứa con 
yêu quý của tôi, thằng bé,...
 + Thay đổi từ ngữ của lời văn trong truyện em đọc bằng các từ ngữ em dùng.
 + Thay đổi cấu trúc một số câu văn, thứ tự một số sự việc cho phù hợp với điểm 
nhìn của người kể chuyện.
 + Thêm lời thoại, thêm yếu tố miêu tả để câu chuyện sinh động hơn
Ví dụ: Đoạn đầu của câu chuyện “Sự tích hoa cúc trắng” như sau: 
 “Ngày xưa, có hai mẹ con nhà nọ sống trong một cái lều nơi xóm vắng. Người 
chồng mất sớm, nên mẹ con làm lụng vất vả lắm mới đủ ăn. Hằng ngày gà chưa gáy 
sáng bà mẹ đã phải dậy làm việc cho đến đêm khuya.
 Giáo viên hướng dẫn học sinh kể lại bằng lời văn của em đoạn truyện trên như sau:
 Từ rất xa xưa, người ta vẫn kể cho nhau nghe rằng có hai mẹ con người đàn bà góa 
sống nghèo khổ trong một túp lều rách nát nơi miền sơn cước. Vì người chồng chẳng 
may lâm bệnh nặng và qua đời sớm nên người mẹ trẻ phải sớm khuya tần tảo dãi nắng 
dầm mưa mới lo đủ cái ăn cho hai mẹ con. Ngày ngày, trời nắng cũng như trời mưa, ấm 
áp hay giá lạnh, bà mẹ cũng đều dậy rất sớm từ khi gà chưa gáy vào rừng chặt củi, tìm 
măng, phát nương, làm rẫy. Bà làm việc không ngừng nghỉ đến khi màn đêm buông 
xuống mới nghỉ tay.
 +Thêm yếu tố biểu cảm (cảm xúc, tâm trạng) để câu chuyện được tự nhiên, chân 
thực đặc biệt là khi kể theo ngôi thứ nhất.
Ví dụ: Nhập vai vào nhân vật Thánh Gióng ở ngôi thứ nhất để kể lại truyện thì ở phần 
cuối câu chuyện khi Gióng và ngựa sắt dừng chân trên đỉnh núi Sóc, người kể chuyện 
thể hiện tâm trạng của mình ví như: Dừng lại rất lâu trên đỉnh núi, dõi đôi mắt lặng 
nhìn về phía xa xa nơi có túp lều tranh nơi mình đã ra đời và lớn lên; hình dung hình 
ảnh cha mẹ già đang dõi mắt ngóng trông tin con trở về; nỗi niệm bâng khuâng, nhớ 
thương trào dâng trong lòng, nước mắt chảy dài lăn trên gò má; quỳ lại mẹ cha, nói lời 
từ biệt và cưỡi ngựa sắt về trời.
 Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn bài Bước lập dàn bài rất gần và sát với phần Viết bài. Vì vậy ý tưởng, cách viết bài của 
người viết cũng dần được bộc lộ cụ thể và rõ nét hơn. Người viết cần xác định được 
ngôi kể và thứ tự kể . Từ đó sắp xếp các sự việc đã lựa chọn trong bước lập ý theo một 
trật tự nhất định, sự việc nào kể trước, sự việc nào kể sau theo diễn biến câu chuyện để 
người đọc dễ theo dõi và hiểu câu chuyện.
 Giáo viên hướng dẫn và yêu cầu học sinh thực hành lập dàn bài cho các đề bài sau:
 - Đề 1 - Nhóm 1: Kể lại truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời văn của em 
 (Sử dụng ngôi kể thứ nhất, trình tự kể không theo thời gian).
 - Đề 2 - Nhóm 2: Kể lại truyện truyền cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng” bằng lời văn 
 của em (Sử dụng ngôi kể thứ ba, trình tự kể thời gian).
*Dàn bài : Kể lại truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời văn của em
 (Sử dụng ngôi kể thứ nhất, trình tự kể không theo thời gian).
a.Mở bài: 
 -Nhập vai vào nhân vật bà mẹ của Gióng ở ngôi thứ nhất , xưng tôi, giới thiệu về mình 
và hồi tưởng lại câu chuyện về đứa con yêu quý.
b. Thân bài:
Người kể chuyện (bà mẹ Gióng) thay đổi cách xưng hô, cách gọi các nhân vật khác 
trong truyện và được bộc lộ cảm xúc, tâm trạng của mình cho phù hợp với ngôi kể thứ 
nhất nhưng vẫn phải đảm bảo các sự việc chính của truyện.
 Ví dụ:
 (1) Tôi và chồng tuổi đã cao mà chưa có con nhưng một lần ướm thử vào vết chân 
 to, tôi đã mang thai và sinh ra một đứa bé trai bụ bẫm.
 (2) Lên ba mà con tôi vẫn không nói cười cũng chẳng biết đi nên chúng tôi buồn 
 lắm.
 (3) Giặc Ân xâm lược bờ cõi, vua sai sứ giả đi tìm người đánh giặc cứu nước.
 (4) Con tôi cất tiếng nói đòi đi đánh giặc khiến chúng tôi kinh ngạc vô cùng.
 (5) Từ sau đó nó ăn uống nhiều vô kể và lớn nhanh như thổi nên dân làng phải 
 chung tay giúp vợ chồng tôi nuôi con.
 (6) Giặc đến, con tôi vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt xông trận.
 (7) Thắng giặc Gióng nhà tôi đã cưỡi ngựa sắt bay về trời. (8) Vua nhớ công ơn phong cho con trai tôi là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền 
 thờ ngay ở quê nhà.
c. Kết bài:
 - Người kể chuyện (mẹ Gióng) bày tỏ cảm xúc, tâm trạng, mong muốn của mình.
*Dàn bài : Kể lại truyện cổ tích “Sự tích hoa cúc trắng” bằng lời văn của em
 (Sử dụng ngôi kể thứ ba, trình tự kể thời gian).
 Đề bài này yêu cầu học sinh vẫn giữ nguyên ngôi kể và trình tự kể giống như trong 
câu chuyện các em đã đọc nên khi làm bài các em sẽ chú trọng vào thay đổi theo hướng 
sau để bài văn không bị sao chép y nguyên từ văn bản đã học:
 + Thay đổi từ ngữ của lời văn trong truyện em đọc bằng các từ ngữ em dùng.
 + Thay đổi cấu trúc một số câu văn.
 + Thêm lời thoại, thêm yếu tố miêu tả để câu chuyện sinh động hơn
a.Mở bài: 
 -Người kể sẽ đứng ngoài dõi theo câu chuyện và bắt đầu kể về gia cảnh, cuộc sống của 
hai mẹ con người phụ nữ nghèo
b. Thân bài:
Đảm bảo các sự việc sau và dự kiến cách kể bằng lời văn của em.
 (1) Một hôm người mẹ ốm nặng, cô bé vội đi tìm thầy thuốc về trị bệnh cho mẹ
 (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, đổi cấu trúc câu, thêm yếu tố miêu tả)
 (2) Trên đường đi, cô bé đã gặp một cụ già râu tóc bạc phơ tự nhận mình là thầy 
 thuốc.
 (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời thoại cho nhân vật)
 (3) Cô bé dẫn cụ về nhà khám bệnh cho mẹ, cụ già bảo cô bé đi hái một bông hoa 
 trắng trong rừng về làm vị thuốc và nói: “Bông hoa có bao nhiêu cánh thì mẹ 
 con sống bấy nhiêu ngày”.
 (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời thoại cho nhân vật)
 (4) Cô bé lặn lội và được bông hoa trắng tuyệt đẹp nhưng nó chỉ có hai mươi cánh.
 (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời độc thoại nội tâm cho 
 nhân vật) (5) Trên đường về, cô bé đã tước mỗi cánh hoa thành nhiều sợi nhỏ với ước mong 
 mẹ khỏi bệnh và sống lâu hơn.
 (Thay đổi từ ngữ diễn đạt, thêm yếu tố miêu tả, thêm lời thoại cho nhân vật)
c. Kết bài:
 Khép lại bài văn bằng sự việc kết thúc câu chuyện
Từ 2 dàn bài minh họa trên, học sinh sẽ nắm được có 2 hướng làm dạng bài: Kể lại một 
truyện truyền thuyết hoặc cổ tích bằng lời văn của em.:
+ Kể lại câu chuyện bằng lời văn của em theo ngôi thứ nhất và trình tự không theo thời 
gian.
+ Kể lại câu chuyện bằng lời văn của em theo ngôi thứ ba và theo trình tự thời gian.
 Qua đó các em định hình cho phần Viết bài.
Bước 4: Viết bài
Phần viết bài là kết quả của các bước 1,2,3. Các em sẽ bám sát vào định hướng trong 
bước lập dàn bài kết hợp với sự hiểu biết và vốn ngôn ngữ của mình để hoàn thành bài 
làm của mình.
Ví dụ : Bài văn kể lại truyện truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời văn của em.
 Tôi sống ở làng Phù Đổng tục gọi là làng Gióng. Tôi đã sinh ra một đứa bé vô 
cùng kì lạ nhưng khi lớn lên nó đã trở thành một người anh hùng đã có công đánh giặc 
Ân cứu nước. Câu chuyện như sau.
 Vào thời vua Hùng thứ sáu, đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm 
no hạnh phúc. Thế nhưng vợ chồng già chúng tôi chứ cui cút trong gian nhà tranh vắng 
tiếng trẻ con. Một hôm, tôi đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần 
thì vừa thấy thần báo mộng trong đêm, tôi đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà tôi đã 
có mang. Chờ hết chín tháng mười ngày mà tôi vẫn chưa sinh nên ông nhà tôi lo quá. 
Nhưng đến tháng mười hai thì vợ chồng tôi đã có con. Chao ôi, một đứa bé mặt mũi 
khôi ngô như một tiên đồng. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng chăm chút hoài mà thằng bé 
vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà nó không biết đi, không biết nói, biết cười. 
 Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng đang 
kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Thằng bé nhà tôi bỗng níu tay áo, và nó cất 
tiếng: “Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con”. Hai vợ chồng tôi bàng hoàng nhìn nhau, tôi vội chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như 
phán truyền: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, áo giáp 
sắt, ta sẽ phá tan giặc!”. Sứ giả sửng sốt rồi kính cẩn chào chúng tôi ra về. Tôi và 
chồng tôi chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm 
ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất 
phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội ca, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng 
hy vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người. 
 Giặc đã đến chân núi Châu Sơn. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. 
Cũng may nhà vua đã cho đưa đến con ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt. Thằng bé bỗng 
đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh mẽ khác thường. Nó mặc giáp sắt, cầm 
roi sắt và leo lên ngựa sắt. Nó vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một luồng bão 
lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà Trời. 
Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc. 
 Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì nó đã cầm roi sắt tả 
xung hữu đột vào giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì roi sắt va vào núi và bị 
gãy. Gióng nhà tôi mới nhổ bụi tre bên đường quật một đám tan quân còn lại. Nó truy 
đuổi giặc đến núi Minh Sóc và tại đây có cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tảng đá rồi 
cùng ngựa sắt bay về Trời. 
 Mọi người đã lập đền thờ ngay trong làng. Và vua Hùng cũng phong cho tôi là Phù 
Đổng Thiên Vương. Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. 
Chính ngựa Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy. 
Và bà con có biết không? Những ao hồ chi chít ở địa phương ta là dấu chân của con 
ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi đấy. Tôi cũng muốn lưu ý mọi người cái làng Cháy 
hiện nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Gióng phun lựa và đốt trụi cả một làng. 
Cũng may là bà con đã chạy giặc hết rồi không thì thật là thảm họa.
 Vợ chồng tôi rất tự hào vì đã có một đứa con dũng cảm giết giặc bảo vệ cuộc sống 
ấm no cho mọi người. Chúng tôi thật tự hào bởi mỗi lúc ra đường mọi người đều kính 
nể và nói: "Hai người ấy là cha mẹ của Phù Đổng Thiên Vương đó". Đó bà con hãy chờ 
coi, thằng Gióng nhà tôi trước lúc bay về trời có nhắn rằng khi nào cha mẹ già yếu nó 

File đính kèm:

  • docbien_phap_ren_ki_nang_lam_dang_bai_ke_lai_mot_truyen_truyen.doc