SKKN Một số chiến lược và kỹ năng nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu

doc 39 trang Mạnh Nam 07/06/2025 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số chiến lược và kỹ năng nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số chiến lược và kỹ năng nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu

SKKN Một số chiến lược và kỹ năng nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu
 PHẦN I: MỞ ĐẦU
I.1 Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: 
Ngày nay, tiếng Anh là thứ tiếng thông dụng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Đó là 
ngôn ngữ của khoa học kỹ thuật, công nghệ, thương mại và thông tin trên toàn cầu. Tiếng 
Anh đã trở thành môn học bắt buộc trong hầu hết các trường học ở Việt Nam, đặc biệt là 
trong trường đại học. 
Theo đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đến năm 2020, giáo viên 
dạy ngoại ngữ phải có năng lực ngôn ngữ giảng dạy cao hơn trình độ chung của cấp dạy hai 
bậc. Cụ thể, đối với giáo viên tiểu học, THCS phải đạt bậc 4/6 do Hiệp hội các tổ chức khảo 
thí ngoại ngữ châu Âu đã ban hành (viết tắt là KNLNN) (CEFR B2) tương đương chứng chỉ 
Fce tối thiểu 60 điểm, chứng chỉ Toefl trên giấy tối thiểu 525 điểm, chứng chỉ Ielts tối thiểu 
5.5 điểm, chứng chỉ Cae tối thiểu 45 điểm hoặc các chứng chỉ được công nhận tương đương 
khác đạt năng lực ngoại ngữ bậc 4 (B2) trở lên theo khung tham chiếu năng lực ngoại ngữ 
chung châu Âu.
Theo quy định, giáo viên dạy tiếng Anh ở từng cấp học đều có “bậc” tham chiếu rõ ràng. 
Thế nhưng qua kỳ thi khảo sát chuẩn châu Âu thì số lượng giáo viên đạt chuẩn là rất ít, ngay 
cả TP.HCM, nơi được coi năng động vào loại bậc nhất cũng có đến 171 giáo viên không đạt 
chuẩn trong số 1100 người được khảo sát. Vậy nguyên nhân này là do đâu. Theo ý kiến của 
hầu hết các giáo viên một trong những lý do chính mà họ không thể đạt được chuẩn châu 
Âu đó là do kỹ năng nghe. Như chúng ta biết kỹ năng nghe đóng vai trò quan trọng trong 
việc giảng dạy ngôn ngữ thứ hai vì nhiều lý do (Rost, 1994). Nếu người học không thể nghe 
được tốt, họ sẽ tìm thấy nó khó khăn để giao tiếp hoặc có lẽ họ không thể vượt qua kỳ 
thi. Trong thực tế, người học thường đi theo con đường sai lầm khi nghe và điều này dẫn họ 
đến kết quả là họ không thể nghe được và bị điểm kém trong khi tham dự các kỳ thi. Cần 
lưu ý rằng nhận thức của người học về vấn đề nghe và chiến lược của họ có thể ảnh hưởng 
đến hiểu biết của mình cả tích cực và tiêu cực (Wenden, 1986).Vì vậy, để giúp người học 
cải thiện với các kỹ năng nghe, nó là cần thiết tìm ra vấn đề của họ. Theo Yagang (1994), 
các vấn đề trong nghe được đi kèm với bốn yếu tố sau: tin nhắn, loa, người nghe và các thiết 
lập vật lý. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã được tiến hành để chọn ra các vấn đề trong 
nghe. Những vấn đề được cho là gây ra bởi tỷ lệ phát biểu, từ vựng và phát âm (Higgins, 
1995). Như Flowerdew & Miller (1996) giả định rằng các vấn đề của người học đã cho tốc 
độ giao hàng, thuật ngữ mới và khái niệm, khó khăn trong việc tập trung và môi trường vật 
lý.Như Nguyễn Viết Ngoạn đã nêu trong bài viết của ông " nghe VOA: lợi thế, các vấn đề 
 1 và giải pháp "các người học phải đối mặt với ba vấn đề. Trước hết, người học cảm thấy khó 
hiểu về chủ đề họ đang nghe. Nói cách khác, họ không có kiến thức nền tảng về những gì họ 
đang lắng nghe. Vấn đề thứ hai đó là trong khi nghe họ gặp nhiều từ vựng, những cụm động 
từ và cụm thành ngữ mà họ không hiểu được. Cuối cùng đó là do tốc độ đọc trong đài quá 
nhanh nên người học không thể bắt kịp và hiểu được.
Như chúng ta đề biết ngoại ngữ là một môn cần nhiều kỹ năng. Nếu không thực hành 
thường xuyên, không có môi trường rèn luyện, kỹ năng sẽ ngày càng bị mai một. Những 
giáo sinh mới ra trường có thể có kỹ năng nghe, nói rất tốt nhưng sau vài năm giảng dạy, sẽ 
bị hao mòn đi do không có môi trường rèn luyện. Chương trình dạy chủ yếu là đọc hiểu và 
ngữ pháp. Điều này cũng có thể lý giải vì sao các chứng chỉ quốc tế như Toeic, Toefl chỉ 
được công nhận giá trị trong khoảng thời gian hai năm”.
Là một giáo viên đang giảng dạy tại trường cấp ba,với sáng kiến này tác giả muốn tìm hiểu 
nguyên nhân vì sao kỹ năng nghe lại là kỹ năng quá khó với những người học. Do đó tác giả 
mong rằng sẽ đưa ra một số kỹ năng nghe hữu ích để giúp người học có thể nâng cao kỹ 
năng nghe và có thể tự tin khi tham gia và kỳ thi chuẩn châu Âu do bộ giáo dục yêu cầu. 
Chính suy nghĩ này đã thôi thúc tác giả viết ra sáng kiến: “Một số chiến lược và kỹ năng 
nghe hữu ích giúp người học có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu.”
 I.2. Mục đích nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu đề tài với 3 mục đich;
 - Đưa ra tình hình học kỹ năng nghe với những người học tiếng Anh như một thứ tiếng 
 thứ hai.
 - Tìm ra những lý do tại sao người học lại thấy rằng kỹ năng lại quá khó.
 - Đưa ra một số kỹ năng hữu ích để giúp cho giáo viên có thể thấy tự tin hơn khi tham 
 gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1.
 I.3. Câu hỏi nghiên cứu:
 Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đã đưa ra 2 câu hỏi cho phần nghiên cứu:
 - Tại sao nghe lại là một kỹ năng khó với những người học tiếng Anh như những ngôn 
 ngữ thứ 2?
 - Những kỹ năng nào nên được áp dụng để nâng cao kỹ năng nghe?
I.4. Đối tượng nghiên cứu: 50 giáo viên phổ thông trung học từ các tỉnh Nam Định, Hà 
Nội, Thái Bình, Sơn La đang ôn thi tại trường Đại học ngoại ngữ- Đại học quốc gia Hà Nội 
để chuân bị tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1 do Bộ giáo dục đề ra.
 2 I.5. Phương pháp nghiên cứu: để đạt được mục đích nghiên cứu tác giả đã sử dụng 
phương pháp định lượng và định tính. Tác giả đã có một bản câu hỏi cho giáo viên để thu 
thu thập thông tin và chứng cứ cho bản nghiên cứu.
1.6. Ý nghĩa nghiên cứu: tác giả mong muốn được góp một phần nhỏ trong việc nâng cao 
kỹ năng nghe giúp giáo viên có thể tự tin khi tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1.
. 
 PHẦN II: NỘI DUNG 
II.1. Cơ sở lý luận :
 II.1.1. Định nghĩa về nghe hiểu
Định nghĩa về nghe hiểu được các nhà khoa học đưa ra theo các cách khác nhau. Theo Field 
(1998:38) thì ‘Nghe là một quá trình trí tuệ không nhìn thấy được, do đó rất khó mô tả. 
Người nghe phải phân biệt được các âm, hiểu được từ vựng và cấu trúc ngữ pháp, nắm 
được trọng âm và ý định của người nói, có thể nhớ lại và hiểu được nó trong ngữ cảnh văn 
hóa-xã hội của phát ngôn.’
Anderson & Lynch (1988: 21) đưa ra định nghĩa về nghe hiểu như sau:
‘Nghe hiểu nghĩa là hiểu những gì mà người nói đã nói. Người nghe có vai trò đặc biệt 
quan trọng trong quá trình nghe bằng cách vận dụng kiến thức đa dạng của mình phân tích 
những gì anh ta nghe được để có thể hiểu phát ngôn của người nói.’
Wolvin & Coakley (1985) định nghĩa nghe theo cách đơn giản hơn: ‘Nghe là quá trình cơ 
quan thính giác tiếp nhận, xử lý và xác định được thông điệp của lời nói.’
Định nghĩa về nghe hiểu, theo Văn Tân và Nguyễn Văn Đạm (1997) trong ‘Từ điển tiếng 
Việt’ được đưa ra cụ thể như sau: ‘Nghe là một quá trình trong đó thính giác tiếp nhận 
những âm thanh bên ngoài và chuyển nó đến hệ thống thần kinh trung ương. Tại đây, những 
âm thanh này được phân tích, chuyển thành những tín hiệu và được truyền đến các giác 
quan giúp hình thành những phản xạ của con người đối với những âm thanh đó.’
Các định nghĩa trên cho thấy nghe hiểu là một kỹ năng giải quyết vấn đề (problem-solving) 
phức tạp. Nhiệm vụ của nghe hiểu không chỉ là tiếp nhận âm thanh mà nó còn đòi hỏi sự 
phân tích và xác định được thông điệp của lời nói.
 3 II.1. 2. Những khó khăn thường gặp trong quá trình học kỹ năng Nghe
Thông thường, con người luôn nghe với một mục đích nhất định. Nếu mục đích của nghe 
chỉ để thư giãn, giải trí nhằm giải tỏa căng thẳng như nghe nhạc chẳng hạn thì người nghe 
hầu như không cần phải có bất kỳ một kỹ năng nào cả. Tuy nhiên, nếu mục đích nghe là để 
thu nhận thông tin, đặc biệt là khi nghe băng, đĩa ngoại ngữ để học tiếng thì người học cần 
phải có một số kỹ năng như: phán đoán trước khi nghe, tập trung trong khi nghe, suy ra 
thông tin chính cần nghe từ những từ ngữ quan trọng trong bài (key words), phân tích, tổng 
hợp những thông tin nghe được. Kỹ năng nghe được tạo thành từ một loạt các kỹ năng riêng 
lẻ đó.
Đa số người học đều có nhận định rằng một văn bản nếu ở dạng viết có thể đơn giản đối với 
họ trong xử lý thông tin, nhưng cũng văn bản đó ở dạng nói thì người học lại gặp rất nhiều 
khó khăn trong việc nắm bắt nội dung chính của bài. Tại sao lại như vậy? Dưới đây là quan 
điểm của một số tác giả khi đưa ra những khó khăn mà người học thường gặp phải trong 
quá trình học kỹ năng nghe.
II.1. 3. Quan điểm của một số tác giả về những khó khăn khi nghe.
Theo Ur, P. (1996), tác giả của nhiều cuốn sách viết về việc dạy tiếng (language teaching) 
thì người học thường gặp phải những khó khăn sau đây trong khi học nghe: (1) Không nhận 
ra được các âm mà người Anh nói, (2) Có thói quen phải hiểu tất cả các từ trong câu mới 
hiểu được nội dung của bài, (3) Không thể hiểu được khi người Anh nói nhanh một cách tự 
nhiên, (4) Cần phải nghe nhiều lần mới có thể hiểu được,(5) Thấy khó có thể nắm bắt được 
tất cả các thông tin và không dự đoán được điều mà người nói sắp nói, (6) Nếu phải nghe 
kéo dài, người học sẽ cảm thấy mệt mỏi và thiếu tập trung.
Khi đề cập đến những khó khăn của người học đối với môn nghe, hai nhà giáo học pháp 
ngoại ngữ là Nguyễn Bàng và Nguyễn Bá Ngọc cũng liệt kê ra 6 khó khăn sau đây: (1)Gặp 
khó khăn với các âm tiếng Anh, (2) Phải hiểu hết các từ, (3) Không hiểu được khi người 
Anh nói nhanh tự nhiên, (4) Thấy khó có thể theo kịp tốc độ nói của người Anh, (5) Cần 
nghe đi nghe lại nhiều lần, (6) Mệt mỏi và thất vọng.
Trong cuốn ‘Teaching Listening’, Underwood (1989) cũng đưa ra một số khó khăn của 
người học nghe. Đó là: (1) Không theo kịp được tốc độ của người nói, (2) Không thể nhắc 
 4 lại được thông tin, (3) Hạn chế về vốn từ vựng, (4) Không nhớ hết tất cả các thông tin nghe 
được, (5) Không nắm bắt được thông tin chính, (6) Không thể tập trung và (7)Không hình 
thành được thói quen nghe.
Những khó khăn trong quá trình học kỹ năng nghe nhìn từ quan điểm của người học cũng 
được các tác giả Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Chi và Hoàng Thị Xuân Hoa (2006) nêu ra 
trong cuốn ‘Đổi mới phương pháp dạy tiếng Anh ở Trung học Phổ thông Việt Nam’ như 
sau: (1) Khó khăn về nghe âm tiếng Anh, (2) Phải hiểu được tất cả các từ mới nắm bắt được 
ý định của người nói, (3) Không hiểu được người bản ngữ khi họ nói nhanh tự nhiên, 
(4) Cần phải nghe đi nghe lại nhiều lần, (5) Thấy khó nắm bắt được tất tất cả các thông tin 
và không dự đoán được thông tin tiếp theo, (6) Không tập trung khi nghe.
Nói tóm lại, theo nhận định của các nhà khoa học kể trên thì người học thường gặp phải 
những khó khăn phổ biến sau đây trong khi nghe: (1) Không nhận ra các âm tiếng Anh, 
(2) Hạn chế về vốn từ vựng, (3) Thiếu tập trung khi nghe, (4) Khó có thể nắm bắt ý chính 
của bài nghe, (5) Cần nghe nhiều lần và (6) Không theo kịp tốc độ của người nói.
Năm mươi người học đang tham dự lớp ôn thi chuẩn châu Âu trình độ C1 tham gia vào 
nghiên cứu này. Để tìm hiểu kinh nghiệm nghe của họ cũng như thời gian người học 
dành cho tự học, người học được yêu cầu đặt một đánh dấu cho câu trả lời tốt nhất của 
họ .
Bảng 1 : Cách thức học tập của người học
Khi hỏi 50 người đề là giáo viên chuẩn bị tham gia vào kỳ thi chuẩn châu Âu C1 về thời 
gian học nghe của họ thì tác giả đã thu được kết quả trên bảng sau:
 Mức độ nghe Không bao giờ Hiếm khi Đôi khi Thường 
 xuyên
 Tỉ lệ % 16 % 42% 36 % 0 %
Bảng trên cho thấy 90% người học không kiểm tra nghe của họ. Điều này có nghĩa là lắng 
nghe thực sự là một trở ngại cho người học. Trong thực tế, để có một kỹ năng lắng nghe tốt, 
phải mất thời gian và công sức. Tuy nhiên, người học dường như dành rất ít thời gian luyện 
tập ở nhà 36 % (đôi khi), 16% (không bao giờ), 42% (hiếm khi). Do đó không tự học thì 
 5 người học không thể tiếp cận với bất cứ cải tiến hoặc kết quả tốt trong nghe hiểu. Tự học là 
một cách để thành công trong nghe. Để cải thiện, người học nên nghe bài hát, băng, đĩa của 
giáo trình trong trường đại học, tin tức bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, kết quả không có gì nếu 
người học không thể suy ra các chiến lược từ mỗi công việc lắng nghe. Kết quả tốt sẽ cho 
kết quả nếu người học nhận ra và áp dụng chiến lược thông qua thực hành của họ.
Bảng 2 : Chiến lược của người học trong khi nghe
 Các chiến lược khi nghe Tỉ lệ
 Đọc lướt qua các câu hỏi trước khi nghe 42 %
 Đoán trước chủ đề sắp nghe 20 %
 Bỏ qua các từ mới và tiếp tục nghe 10,5 %
 Cố gắng đoán nghĩa của các từ trong khi nghe 42,4 %
 Cảm thấy chán nản khi gặp từ mới 47,4 %
Những gì người học làm trước khi nghe một phần có tác động trên hiểu biết của mình về các 
văn bản nghe. Theo số liệu đã được thu thập, 42 % người học nói rằng họ sẽ đọc lướt qua 
các câu hỏi trước khi nghe chỉ có 20 % đoán về các chủ đề sắp nghe. Đó là chưa hợp lý cho 
giai đoạn đầu tiên nghe. Tuy nhiên, các hướng dẫn công việc nên trước khi đọc trong bất kỳ 
trường hợp nào. Khi họ đọc, họ biết những gì họ có nghĩa vụ phải làm và làm thế nào để đối 
phó với điều đó. Chưa có nhiều người học tham gia bước đầu tiên này
Ngoài ra, từ mới là những vấn đề như vậy mà ngăn chặn người học hiểu các văn bản. Khi 
gặp một từ mới, chỉ 10,5% chọn để bỏ qua các từ và tiếp tục lắng nghe, 42,4% cố gắng đoán 
ý nghĩa của nó và 47,4% cảm thấy chán nản và không thể nghe được nữa. Từ đó, chúng ta 
có thể thấy rằng thiếu vốn từ vựng có thể là một rào cản đối với người học. 
Như Hedge (2000:237) đã chỉ ra rằng, thay vì lắng nghe từng chữ trong ngôn ngữ đầu tiên 
của họ, nhiều người học ngôn ngữ có xu hướng tích hợp năng lực ngôn ngữ, kinh nghiệm và 
kiến thức nền tảng của họ để hiểu văn bản.
Nghe hiểu, một người biết lắng nghe sẽ không lắng nghe tất cả những lời của các nhiệm vụ 
lắng nghe. Họ có thể bỏ qua bất kỳ một phần của nó và chỉ tập trung vào các thông tin mà 
họ cần cho câu trả lời của họ. Ngược lại, hầu hết những người tham gia trong nghiên cứu 
của tôi bao gồm 73,6% đồng ý rằng họ lắng nghe từng chữ. Nghe từng chữ hoặc lắng nghe 
các chi tiết, như họ nghĩ, là rất quan trọng để có được những ý tưởng chính. Một khi họ cố 
 6 gắng để hiểu tất cả các từ duy nhất, có rất ít cơ hội để họ khám phá các từ khóa mà cung cấp 
cho họ những đầu mối để hiểu được văn bản nghe.
Trong ngôn ngữ đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi lướt qua các phần của tin nhắn và chú ý 
đến bộ phận duy nhất có liên quan. Do đó câu không được xử lý từng chữ và tập trung được 
đặt trên ý tưởng đằng sau những lời này và làm thế nào những ý tưởng liên kết với nhau để 
rút ra kết luận. Brown (1992) . 
II.2. Vấn đề trong việc học nghe
Để xác định vấn đề, người học được yêu cầu đặt câu trả lời của họ trên như quy mô của 
tần số khác nhau, từ không bao giờ luôn. Các vấn đề được phân loại thành hai loại khác 
nhau, cụ thể là các vấn đề từ người nghe và vật tư thiết bị nghe.
II.2.1. Vấn đề từ người nghe
 Vấn đề Không Một số thường luôn 
 bao giờ lần luôn
 Đưa ra dự đoán những 36,8% 36,8% 26,4%
 gì người nói nói về
 Đoán từ hoặc cụm từ 15,8% 36,8% 47,4%
 chưa biết 
 Công nhận điểm chính 21,1% 10,5% 31,6% 36,8%
 Bảng 3 : Thống kê về các vấn đề từ người nghe
Các vấn đề đầu tiên đã được dự đoán những gì người nói sẽ nói với 68,3% (thường và luôn 
luôn). Trong thực tế, dự đoán mang lại một số lợi thế cho người học nghe hiểu của họ. Theo 
Hasan (2000), vấn đề được cho là gây ra bởi thói quen lắng nghe từng chữ. Họ không tập 
trung vào bất kỳ tín hiệu đặc biệt giúp họ dự đoán những gì sẽ được nói đến. Tuy 
nhiên, trong mọi công việc lắng nghe, tín hiệu được cung cấp gián tiếp mà nghe được đào 
tạo hoặc có kinh nghiệm có thể nhận ra nó một cách tự nhiên. Ví dụ, tiêu đề của công việc 
có thể giúp người học để đoán điểm đến tiếp theo. Ngoài ra, dự đoán có thể được thực hiện 
bằng hình ảnh, bản đồ, biểu đồ hoặc bất cứ điều gì được cung cấp trong nghe. Bên cạnh đó, 
làm cho câu hỏi liên quan đến chủ đề nghe sẽ giữ cho người học thúc đẩy và nâng cao hiểu 
biết của mình. 
Sẽ không có lo lắng nếu những câu hỏi không phù hợp với điểm tiếp theo trong nhiệm vụ 
lắng nghe.Tạo ra các dự đoán câu hỏi, như Berman (2003) nghĩ rằng, sẽ duy trì học sinh tập 
trung vào nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, câu trả lời cho những câu hỏi chuẩn bị trong giai 
 7 đoạn trước khi nghe có thể là ý tưởng chính thực tế của nhiệm vụ lắng nghe. Bằng cách này, 
câu hỏi dự đoán là một cách hữu ích để cải thiện hiểu.
Vấn đề thứ hai là giới hạn của quyền lực từ vựng. 89,4% số người tham gia bị hiểu không 
đầy đủ. Một số người nghe nghĩ rằng ý nghĩa nơi cư trú của các từ không quen thuộc vì vậy 
họ cần một số lượng lớn các từ vựng. Trên phải đối mặt với một từ mới, họ có xu hướng tìm 
ra ý nghĩa chứ không phải là suy ra nó từ ngữ cảnh (Hasan, 2000). Dưới đây là một số kỹ 
thuật để tham khảo:
Chiến lược đầu tiên và cơ bản nhất là sử dụng các manh mối đó là những từ hoặc cụm từ 
đến sau khi những lời không rõ. Tuy nhiên, người học phải đảm bảo rằng họ không dành 
nhiều thời gian vào đoán từ không quen thuộc hoặc họ sẽ bỏ lỡ điểm tiếp theo của người 
nói. Ngoài ra, các loa có thể sử dụng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa hoặc appositives để giải 
thích các từ.
Vấn đề thứ ba là công nhận những điểm chính trong nghe hiểu. Nếu người học không thể có 
được bất cứ điểm chính, thất bại sẽ là một kết quả không thể tránh khỏi. 73,6% người học 
không thể nhận ra những điểm chính trong một nghe bởi vì họ tập trung quá nhiều vào nghe 
từng chữ. Vì vậy, họ không thể xác định các từ khóa hoặc các từ nội dung của nhiệm vụ 
lắng nghe. Tuy nhiên, có những đầu mối đề xuất bởi Berman (2000) để xác định những 
điểm chính trong nghe.
Đánh dấu luận được coi là cây cầu dẫn đến các điểm. Nó là một điều tự nhiên như vậy mà 
các loa thường báo hiệu những điểm chính với các dấu hiệu ngôn. Đánh dấu khác nhau với 
các biểu thức đặc biệt giữ cho người nghe bắt kịp với bước ngoặt của nhiệm vụ. Đánh dấu 
bổ sung (ngoài ra, hơn nữa, hơn nữa, vv) thông báo sửa đổi hoặc thêm vào một ý tưởng 
trong khi dấu hiệu của nguyên nhân và trình tự (bởi vì, do thực tế rằng, kết quả là, do đó) 
cho chúng ta biết lý do và kết quả một thực tế hoặc một hành động.
Lặp đi lặp lại được coi là tín hiệu của điểm chính. Khi một từ hoặc cụm từ được lặp đi lặp 
lại nhiều lần, có thể nó bao gồm những điểm quan trọng. 
Tốc độ của các bài phát biểu cũng cung cấp tín hiệu cho việc đánh bắt những điểm 
chính. Như một vấn đề của thực tế, nói chuyện tự nhiên là rất nhanh cho người học ngôn 
ngữ thứ hai do đó, nó làm cho một số rắc rối cho loa không bản địa. Tuy nhiên, trong dòng 
nghe sinh viên sẽ nhận thấy rằng đôi khi người nói nói chậm hơn một chút và rõ ràng hơn 
anh đã làm trước đây. Điều này chủ yếu là các điểm của sự lắng nghe. Đó là cơ hội cho 
người học để nắm bắt những thông tin cần thiết trong một văn bản nghe. Nhấn mạnh là một 
yếu tố tự nhiên khi nói như vậy loa cũng nhấn mạnh để báo hiệu những ý tưởng quan trọng 
 8 nhất. Những gì học sinh cần làm là phải quan tâm đến tốc độ và ngữ điệu của người nói và 
xác định các điểm. Như trong cuốn sách "chiến lược lắng nghe trước" của mình (Berman, 
2003) cho rằng:
Tốc độ là tốc độ của bài phát biểu. Điểm không quan trọng hoặc các chi tiết nhỏ thường nói 
nhanh hơn. Điểm quan trọng, chẳng hạn như ý tưởng chính, thường nói chậm hơn và rõ 
ràng.
II.2. 2. Vấn đề từ các tài liệu nghe
 Vấn đề Không Đôi khi Thường Luôn luôn
 bao giờ
 Chủ đề quen thuộc 63,2% 31,6% 5,2%
 Giọng khác nhau 21,1% 47,4% 31,5%
 Vật liệu xác thực 10,5% 68,4% 21,1%
 Từ ngôn ngữ giao tiếp 10,5% 36,8% 36,8% 15,9%
 Tốc độ của lời nói 31,6% 52,6% 15,8%
 Liên kết từ 10,5% 15,8% 73,7%
 Câu sai ngữ pháp 52,6% 47,4% 
 Do dự 21,1% 47,4% 31,5% 
 Nghe lâu 15,8% 52,6% 31,6% 
 Bảng 4 : Thống kê về các vấn đề từ các tài liệu nghe
Bảng 4 cho thấy chủ đề quen thuộc đôi khi mang lại một vấn đề trong nghe hiểu. 63,2% (đôi 
khi) và 36,8% (thường xuyên và luôn luôn) của các người học có vấn đề với các chủ đề mà 
không quen thuộc với họ. Các tài liệu nghe có thể chứa nhiều lĩnh vực trong cuộc sống và 
xã hội. Ví dụ, nó có thể là một báo cáo kinh doanh, một cuộc trò chuyện hàng ngày hoặc 
một vấn đề chính trị mà gây nhầm lẫn cho người nghe. Những cuộc nói chuyện có thể bao 
gồm các từ, cụm từ hoặc thuật ngữ quen thuộc với người nghe. Họ là hoàn toàn xa lạ đối với 
họ để nó là một công việc khó khăn như vậy để lắng nghe khi các tin nhắn có đầy đủ các 
thuật ngữ. Giải pháp là yêu cầu học sinh thực hành càng nhiều càng tốt các vật liệu khác 
nhau. Do đó, họ có thể được sử dụng để lắng nghe những chủ đề khác nhau mà không cần 
bất kỳ khó khăn.
Theo bảng 2, nhiều điểm nhấn gây khó khăn cho người học nghe hiểu vì họ không có nhiều 
tiếp xúc với điểm nhấn khác nhau. Kết quả từ bảng 2 cho thấy rằng 47,4% và 31,5% số học 
sinh trải nghiệm loại vấn đề. Ví dụ, nếu người học lắng nghe người Pháp nói tiếng Anh, họ 
 9 sẽ cảm thấy khó hiểu anh ta hoặc cô như họ nói tiếng Anh trong một ngữ điệu Pháp có 
nguồn gốc. Yagang (1994) khẳng định rằng người nghe có xu hướng để làm quen với những 
điểm nhấn mà họ chủ yếu là lắng nghe. Nếu nghe được tiếp xúc với điểm nhấn tiêu chuẩn 
của Anh hay Mỹ, họ sẽ phải đối mặt với các vấn đề trong sự hiểu biết điểm nhấn khác.
Bên cạnh đó, nó là ngôn ngữ thực sự hay vật liệu xác thực là nguyên nhân gây khó khăn cho 
học sinh. Sinh viên đã được tiếp xúc với chính mình để vật liệu được thiết kế cho mục đích 
giảng dạy và lắng nghe. Vì vậy, ngôn ngữ trong các tài liệu này, một số phạm vi, đã được 
đơn giản hóa và chứa ít thông tục tiếng Anh. Ngoài ra, người học trong các trường đại học 
của chúng tôi chủ yếu là học tiếng Anh với giáo viên không có nguồn gốc. Như cho rằng, 
nếu người học nghe một cuộc trò chuyện không chính thức, đó là chắc chắn rằng đó là khó 
khăn hơn nhiều so với nghe một cuộc trò chuyện chính thức sử dụng chủ yếu trong lớp học 
tiếng Anh. Không giống như các bản ghi âm trong lớp học ESL, các cuộc trò chuyện không 
chính thức bao gồm một số từ có âm thanh lạ cho học sinh. Do đó, họ không biết những gì 
họ đang nghe. Ngôn ngữ thực bao gồm những từ thông tục, biểu thức và thậm chí cả tiếng 
lóng mà hoàn toàn hầu như không mang lại bất kỳ các sinh viên các khái niệm về 
chúng.McCarthy (1990:15) chỉ ra rằng nó cần người bản ngữ năm để có được một kiến thức 
chấp nhận được sắp xếp thứ tự. Mặt khác, Heron và Seavy (1991) đã nhấn mạnh tầm quan 
trọng của vật liệu xác thực để cải thiện tuyệt vời của họ trong nghe hiểu từ các tài liệu xác 
thực liên quan chặt chẽ đến cuộc sống và sự đa dạng ngôn ngữ.
Ngoài ra, các tính năng ngôn ngữ là rào cản ngôn ngữ cho người học. Các liên lạc, các liên 
kết của từ đầu tiên và từ đến ngay sau đó bắt đầu bằng một nguyên âm, là tuyên bố của 
73,7% số học sinh được sự tắc nghẽn thường gặp nhất ở nghe kể từ khi các sinh viên được 
sử dụng để nghe mỗi từ riêng biệt của đơn vị trong một câu và dòng suối chảy chậm lắng 
nghe. Do đó, họ hiểu sai từ liên kết hoặc họ không có ý tưởng về ý nghĩa chuyển giao. Một 
vấn đề khác nghe là sự bỏ bớt của một âm thanh hay chính xác một âm tiết trong một 
từ. Các loại tính năng có thể gặp phải khi tin nhắn được nói ở đó một tâm trạng tốc độ 
nhanh chóng mà các câu thốt ra không thể nói từng chữ. Như vậy, người học không thể 
nhận ra những từ mà họ nghe thấy. Liên lạc và sự bỏ bớt, như Yagang (1994) cho rằng, 
những khó khăn mà người nghe thường phải đối mặt trong khi nghe. Thông thường, họ đã 
quen với các từ viết rằng tổ chức có trật tự trong sách giáo khoa. Vì vậy, trong dòng chảy 
của bài phát biểu, người học thấy khó để nhận ra các từ riêng biệt.
Trong thực tế, người học thường cố gắng để mở khóa ý nghĩa bằng cách phân tích cấu trúc 
câu. Cấu trúc không quen thuộc sẽ có sự nhầm lẫn đối với họ. Do đó, có 47,4% người học 
 10

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_chien_luoc_va_ky_nang_nghe_huu_ich_giup_nguoi_ho.doc