Bài luyện tập Ngữ văn Lớp 12 - Trường THPT Vũ Văn Hiếu
Bạn đang xem tài liệu "Bài luyện tập Ngữ văn Lớp 12 - Trường THPT Vũ Văn Hiếu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài luyện tập Ngữ văn Lớp 12 - Trường THPT Vũ Văn Hiếu
Đề số 1 Bài tập 1 Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: “ Cuộc đời ai cũng có những tấm bằng Để làm giấy chứng minh Để cầu mong thành đạt Những tấm bằng như những bảng chỉ đường qua những đường phố hẹp Để đến đại lộ cuộc đời ngày càng mở rộng thêm Có những vĩ nhân được nhân loại khắc tên Bởi các tấm bằng xứng danh trong lịch sử Và có những tấm bằng chứng nhận những việc làm tuy nhỏ Nhưng cố gắng hết mình, vẫn quý trọng biết bao! Có được điều gì lớn lao Từ những gì nhỏ bé Đừng bao giờ chứng minh cuộc đời bằng những gì không thể Như những tấm bằng không bằng được chính ta Có đi bước gần mới đến quãng xa Mới biến được cái không thành có thể Đừng mong chờ có ai bán rẻ Đâu lẽ đời bánh vẽ sẽ lên tiên? Những tấm bằng có đóng dấu kí tên Chỉ là giấy thông hành đi vào cuộc sống Nhưng quý giá hơn là cuộc đời ghi nhận Mới là – TẤM BẰNG – bằng – của – chính – ta”. (“Tấm bằng” - Hoàng Ngọc Quý) Câu 1: Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0.5 điểm) Câu 2: Theo tác giả, tấm bằng có vai trò như thế nào trong cuộc sống của mỗi chúng ta?(0.75 điểm) Câu 3: Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu sau: (1.0 điểm) Những tấm bằng như những bảng chỉ đường qua những đường phố hẹp Câu 4: Thông điệp nào của văn bản trên có ý nghĩa nhất đối với anh/chị? (0,75) điểm. Bài tập 2 Đọc đoạn trích: “Biết nói gì trước biển em ơi! Trước cái xa xanh thanh khiết không lời Cái hào hiệp ngang tàng của gió Cái kiên nhẫn của nghìn đời sóng vỗ Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời Cái giản đơn sâu sắc như đời Chân trời kia biển mãi gọi người đi Bao khát vọng nửa chừng tan giữa sóng Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng Bao kiếp vùi trong đáy lặn mù tăm Nhưng muôn đời vẫn những cánh buồm căng Bay trên biển như bồ câu trên đất Biển dư sức và người không biết mệt Mũi thuyền lao mặt sóng lại cày bừa Những chân trời ta vẫn mãi tìm đi” (Trước biển – Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam 1945 – 1985, NXB Văn học, 1985, tr.391) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào? Câu 2: Anh/Chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào “Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng Bao kiếp vùi trong đáy lặn mù tăm” Câu 3: Hãy cho biết hiệu quả của phép điệp trong các dòng thơ sau: “Cái hào hiệp ngang tàng của gió Cái kiên nhẫn của nghìn đời sóng vỗ Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời Cái giản đơn sâu sắc như đời” Câu 4: Hành trình theo đuổi khat vong của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì? Đề số 2 Bài tập 1: Đọc đoạn trích: Hãy thức dậy, đất đai! cho áo em tôi không còn vá vai cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn... xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm rồi thì đi xa hơn - đẹp, và giàu, và sung sướng hơn Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non châu báu vô biên dưới thềm lục địa rừng đại ngàn bạc vàng là thế phù sa muôn đời như sữa mẹ sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào? lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao? *** Lúc này ta làm thơ cho nhau đưa đẩy mà chi mấy lời ngọt lạt ta ca hát quá nhiều về tiềm lực tiềm lực còn ngủ yên... Tp. Hồ Chí Minh 1980 -1982 (Trích "Đánh thức tiềm lực", Ánh trăng - Cát trắng - Mẹ và em, Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn, 2015, tr. 289-290) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1: Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào? Câu 2: Trong đoạn trích, tác giả đã nhắc đến những yếu tố nào thuộc về tiềm lực tự nhiên của đất nước? Câu 3: Nêu hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi tu từ trong đoạn trích. Câu 4: Theo anh/chị, quan điểm của tác giả trong hai dòng thơ: “ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/tiềm lực còn ngủ yên” có còn phù hợp với thực tiễn ngày nay không? Vì sao? Bài tập 2 Tôi mồ côi cha năm hai tuổi Mẹ tôi thương con không lấy chồng Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải Nuôi tôi đến ngày lớn khôn. Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ Ngày ấy tôi mới lên năm Có lần tôi nói dối mẹ Hôm sau tưởng phải ăn đòn. Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn Ôm tôi hôn lên mái tóc - Con ơi trước khi nhắm mắt Cha con dặn con suốt đời Phải làm một người chân thật. - Mẹ ơi, chân thật là gì? Mẹ tôi hôn lên đôi mắt Con ơi một người chân thật Thấy vui muốn cười cứ cười Thấy buồn muốn khóc là khóc. Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao doạ giết Cũng không nói ghét thành yêu. Từ đấy người lớn hỏi tôi: - Bé ơi, Bé yêu ai nhất? Nhớ lời mẹ tôi trả lời: - Bé yêu những người chân thật. (Trích “Lời mẹ dặn” in trong tập “100 bài thơ hay thế kỉ XX”) Câu 1(0,5 điểm) Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào? Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ? Câu 2: (0,75 điểm) Sự vất vả và tình cảm yêu thương con của người mẹ được thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh nào? Câu 3: (1,0 điểm) Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ điệp cấu trúc được sử dụng trong đoạn thơ. Câu 4: (0,75 điểm) Câu thơ cuối đoạn thơ “- Bé yêu những người chân thật.” muốn gửi tới bạn đọc thông điệp gì? Đề số 3 Viết đoạn văn khoảng 200 chữ bàn về trách nhiệm của tuổi trẻ với tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Đề số 4 Viết đoạn văn khoảng 200 chữ bàn về ý kiến sau: Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất” Đề số 5 Đề bài “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho.Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều quanh nương để sưởi lửa.Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ ( ). Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. /Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu. Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy. Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn cònnhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lạitiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa. Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. (Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD, 2008, tr 6,7) Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét chất thơ trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài được thể hiện trong đoạn trích. Đề số 6 Lập dàn ý cho đề bài sau: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân hai lần miêu tả cung cách ăn uống của người vợ nhặt. Chiều hôm trước khi được Tràng đãi bánh đúc ở ngoài chợ “Thế là thị sà xuống ăn thật, thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì”. Sáng hôm sau, khi nhận bát chè khoán từ tay mẹ chồng “Người con dâu đón lấy cái bát đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối sầm lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”. Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong hai lần miêu tả trên. Từ đó, làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này. Đề số 7 Hoàn thành BẢNG SAU: HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA CÁC TÁC PHẨM THƠ TÁC TÁC GIẢ XX/ ĐỀ CHỦ NỘI NGHỆ NHẬN PHẨM (Những nét HCST TÀI ĐỀ DUNG THUẬT ĐỊNH chính về phong cách) Tây Tiến Việt Bắc (Trích) Đất Nước (Trích) Sóng
File đính kèm:
bai_luyen_tap_ngu_van_lop_12_truong_thpt_vu_van_hieu.doc

