Đề ôn luyện số 1 môn Ngữ văn Khối 11 - Trường THPT Trần Phú (Có đáp án)

Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới (từ câu 1 đến câu 4)

        Cái quý giá nhất trên đời mà mỗi người có thể góp phần mang lại cho chính mình và cho người khác đó là “năng lực tạo ra hạnh phúc”, bao gồm năng lực làm người, năng lực làm việc và năng lực làm dân.

        Năng lực làm người là có cái đầu phân biệt được thiện – ác, chân – giả, chính – tà, đúng – sai…, biết được mình là ai, biết sống vì cái gì, có trái tim chan chứa tình yêu thương và giàu lòng trắc ẩn. Năng lực làm việc là khả năng giải quyết được những vấn đề của cuộc sống, của công việc, của chuyên môn  và thậm chí là của xã hội. Năng lực làm dân là biết được làm chủ đất nước là làm cái gì và có khả năng để làm được những điều đó. Khi con người có được những năng lực đặc biệt này thì sẽ thực hiện được những điều mình muốn. Khi đó, mỗi người sẽ trở thành một “tế bào hạnh phúc”, một “nhà máy hạnh phúc” và sẽ ngày ngày “sản xuất hạnh phúc” cho mình và cho mọi người.

         Hạnh phúc là một quyền mà bất cứ ai đều được hưởng. Nó không phân biệt với bất kì ai. Bạn chưa được hạnh phúc chẳng qua là do bạn không làm gì để có được nó mà thôi. Hạnh phúc là đơn sơ nhưng nó cũng không đến với những ai không xứng đáng. Xã hội mở ngày nay làm cho không có ai là “nhỏ bé”. Ai cũng có thể trở thành những “con người lớn” bằng hai cách: làm được những việc lớn hoặc làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khi biết chọn cho mình  một lẽ sống phù hợp rồi sống hết mình và cháy hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta không chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc, mà còn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tôi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc!

                         (Để chạm vào hạnh phúc - Giản Tư Trung, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, 21/9/2016 )

Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính của văn bản. (1 điểm)

docx 6 trang letan 17/04/2023 1540
Bạn đang xem tài liệu "Đề ôn luyện số 1 môn Ngữ văn Khối 11 - Trường THPT Trần Phú (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề ôn luyện số 1 môn Ngữ văn Khối 11 - Trường THPT Trần Phú (Có đáp án)

Đề ôn luyện số 1 môn Ngữ văn Khối 11 - Trường THPT Trần Phú (Có đáp án)
ản xuất hạnh phúc” cho mình và cho mọi người.
 Hạnh phúc là một quyền mà bất cứ ai đều được hưởng. Nó không phân biệt với bất kì ai. Bạn chưa được hạnh phúc chẳng qua là do bạn không làm gì để có được nó mà thôi. Hạnh phúc là đơn sơ nhưng nó cũng không đến với những ai không xứng đáng. Xã hội mở ngày nay làm cho không có ai là “nhỏ bé”. Ai cũng có thể trở thành những “con người lớn” bằng hai cách: làm được những việc lớn hoặc làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khi biết chọn cho mình một lẽ sống phù hợp rồi sống hết mình và cháy hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta không chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc, mà còn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tôi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc!
 (Để chạm vào hạnh phúc - Giản Tư Trung, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, 21/9/2016 )
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính của văn bản. (1 điểm)
Câu 2. Nêu nội dung chính của văn bản. (1 điểm)
Câu 3. Theo quan điểm của mình, anh/chị chọn cách “chạm” vào hạnh phúc bằng việc làm những việc lớn hay làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Vì sao? (Nêu ít nhất 2 lí do). (1 điểm)
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
 Hãy viết một đoạn văn ngắn từ 10 -12 dòng trình bày suy nghĩ của anh / chị về ý kiến: 
 “Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết cảm nhận và chấp nhận chứ không đến với những kẻ truy lùng hạnh phúc”.
Câu 2. (5,0 điểm)
 Phân tích hình ảnh thiên nhiên và cái tôi trữ tình trong đoạn thơ sau:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
 (Xuân Diệu, ... định chọn cách “chạm” vào hạnh phúc bằng việc: làm những việc lớn hay làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. --> 0,25 điểm.
--->Học sinh nêu được ít nhất 02 lí do hợp lí, phù hợp và thuyết phục với cách chọn của mình. --> 0,75 điểm.
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
 Hãy viết một đoạn văn ngắn từ 10 -12 dòng trình bày suy nghĩ của anh / chị về ý kiến: 
 “Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết cảm nhận và chấp nhận chứ không đến với những kẻ truy lùng hạnh phúc”.
Yêu cầu về hình thức:
HS cần đáp ứng được những kỹ năng cơ bản khi viết một đoạn văn nghị luận xã hội; đảm bảo đúng yêu cầu về dung lượng và các thao tác hành văn cơ bản.
Yêu cầu về nội dung:
HS có thể tự do trình bày suy nghĩ của mình tuy nhiên cần có lập luận hợp lý và thuyết phục. Sau đây là một vài gợi ý:
 Giải thích:
- Hạnh phúc là cảm giác vui sướng, mãn nguyện khi ta đạt được những mong ước tốt đẹp, lành mạnh của chính mình. Ta chỉ có thể đạt được “hạnh phúc” khi ta biết “ cảm nhận” , nghĩa là phải biết lắng nghe, đón nhận vẻ đẹp của cuộc sống.
- Chấp nhận là thái độ thỏa mãn, nâng niu, trân trọng và vui vẻ với những gì mình đang có. 
- Những kẻ truy lùng đó là những kẻ khao khát có được hạnh phúc đến điên đảo, sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để đạt được tham vọng.
---> Câu nói trên thực sự đã chỉ ra cho chúng ta một phương thức, một con đường tìm đến với niềm vui trong cuộc sống: hạnh phúc luôn tồn tại và chờ đợi những ai biết trân trọng giá trị đang có, tham vọng quá đáng không bao giờ mang lại hạnh phúc thực sự.
 Bàn luận:
- Câu nói trên là kim chỉ nam cho những ai đang kiếm tìm “hạnh phúc” và có giá trị cho những ai đang
 “than thân trách phận”
- “Hạnh phúc” đến với những ai biết “cảm nhận và chấp nhận’ mà thôi. Vì họ là người có trái tim nhạy cảm, biết lắng nghe, yêu thương, chia sẻ và biết đón nhận vẻ đẹp của cuộc đời.
- Còn với những “ kẻ truy lùng hạnh phúc” thì hạnh phúc luôn trốn chạy
- Phê phán những ai không biết nâng niu quý trọng nhữn... chẽ, bố cục rõ ràng.
Yêu cầu về kiến thức:
1.Vài nét về tác giả và tác phẩm:
- Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, đã đem đến cho thơ ca đương thời một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật táo bạo.
- Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước 1945. Bài thơ thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống.
2.Phân tích:
 a. Hình ảnh thiên nhiên
 -- Vẻ đẹp của thiên nhiên
 + Gần gũi, thân quen (nắng gió, hoa lá, ánh sáng, thanh âm...)
 + Tươi đẹp, tràn đầy sức sống, niềm vui (đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, thần Vui gõ cửa...)
 + Tình tứ, quyến rũ (ong bướm, tuần tháng mật, ngon như cặp môi gần...)
-- Thiên nhiên được diễn tả bằng những hình ảnh mới lạ; ngôn từ gợi cảm, tinh tế với nhiều biện pháp tu từ đặc sắc (nhân hóa, so sánh...); cú pháp tân kỳ.
b. Cái tôi trữ tình:
-- Cái tôi trữ tình Xuân Diệu là cái tôi ý thức cá nhân mạnh mẽ, đầy lòng ham sống:
 + Cách nhìn đời trẻ trung qua lăng kính tình yêu. Vẻ đẹp của con người được nhà thơ lấy làm chuẩn mực cho cái đẹp của thiên nhiên.
 + Tình cảm vừa thiết tha, rạo rực, đắm say ( bộc lộ ham muốn khác thường: cách giới thiệu say sưa, vồ vập; cảm nhận thế giới xung quanh bằng mọi giác quan) vừa vội vàng, quyến luyến do cảm nhận được bước đi nhanh chóng của thời gian.
-- Cái tôi trữ tình được thể hiện bằng giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo.
3. Đánh giá chung:
-- Thiên nhiên tràn đầy sức sống, xuân tình; lối thể hiện rất hiện đại.
-- Cái tôi thiết tha gắn bó với trần thế và khát khao thụ hưởng những hương sắc trần gian; biểu hiện của một quan niệm sống tích cực.

File đính kèm:

  • docxde_on_luyen_so_1_mon_ngu_van_khoi_11_truong_thpt_tran_phu_co.docx