Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Người lái đò Sông Đà"

pdf 15 trang Mạnh Nam 05/06/2025 180
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Người lái đò Sông Đà"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Người lái đò Sông Đà"

Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Người lái đò Sông Đà"
 HƯỚNG DẪN ÔN TẬP: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN 
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
 1. Tác giả 
Nguyễn Tuân sinh ra trong một nhà Nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nghệ sĩ tài ba, 
uyên bác, có cá tính độc đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, 
Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại, song đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm 
tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân về thể loại này là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. 
 2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác. 
- Tác phẩm được in trong tập tuỳ bút Sông Đà xuất bản năm 1960. 
- “Người lái đò sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế gian khổ và 
hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Tổ Quốc. Chuyến đi không chỉ để thoả 
mãn thú ưa xê dịch của nhà văn mà còn là cơ hội để Nguyễn Tuân tìm kiếm “chất vàng 
mười” của thiên nhiên và con người lao động nơi đây 
- Chủ đề: Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước 
say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì 
vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động 
bình dị ở miền Tây Bắc. 
 3. Nội dung 
 a. Hình tượng con sông Đà: hung bạo dữ dằn và trữ tình thơ mộng. 
 * Sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân là dòng sông mang tính cách hung bạo: 
– Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích gần nhau, làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết hầu thắt 
giữa hai vách đá dưng đứng hiểm trở. Hẹp đến nỗi mà “lúc đứng ngọ mới nhìn thấy ánh 
mặt trời”, có thể “nhẹ tay mà ném hòn đá qua bên kia vách”. Ở đây “con nai con hổ đã 
có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là việc “Ngồi trong khoang đò qua 
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang ở hè một cái ngõ 
mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn 
điện”. Ở đoạn này tác giả đã dùng tri thức ngược sáng của điện ảnh để cảm nhận, tạo cho 
người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại. 
– Hung bạo ở cái dữ dằn của gió – nước. Lại qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng 
cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm suốt 
tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Ở đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã sử dụng động từ 
mạnh “xô”, nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “xô”: xô 
đá, xô sóng, xô gió làm cho sự hung bạo trở nên dữ tợn hơn. 
– Hung bạo hơn nữa là ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người 
ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “Trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lừ 
lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” có lúc lại 
nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đúng là con Sông Đà không khác gì một loài hung 
thú đi đến đâu là gieo giắc hiểm nguy đến đó. “Cho nên không một chiếc thuyền nào 
dám men gần cái hút nước ấy Bè gỗ nghêng ngang qua đây vô ý là bị cái hút nước đó 
lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm 
dưới lòng sông đến mươi phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Cách so 
sánh, ví von, mô tả của tác giả gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, 
nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ cuả Sông Đà mà thót tim lại. 
– Nhưng con Sông Đà hung bạo nhất ở mấy chục con thác đá tạo thành các thạch thủy 
trân vô cùng hiểm trở với biết bao cửa tử: 
+ Trước hết là âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: Con Sông Đà đã trở 
thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Tiếng nước thác nghe như là 
 với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều biện 
pháp nghệ thuật như: nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng động từ mạnh làm cho hình 
ảnh sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu khôn 
khéo, ranh ma. 
+ Thứ hai là hung bạo và dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang mai phục ẩn 
nấp để gieo rắc kinh hoàng cho ông lái đò. Đá ở đây chia thành ba tuyến và năm cửa, 
bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh. Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng 
đá dàn bày thế trận. 
Có thể nói: Tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy: thiên nhiên Tây Bắc thật hùng vĩ 
và tình yêu của Nguyễn Tuân đối với Sông Đà thật bao la. 
*. Bên cạnh nét tính cách hung bạo, Sông Đà cũng rất trữ tình, thơ mộng: – Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà lại rất trữ 
tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Tác giả tha thiết gọi con sông Đà là cố 
nhân đi xa thì nhớ nhung, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. 
+ Đó là lúc nhà văn nhìn con Sông Đà bằng con mắt thẩm mỹ văn hóa để phát hiện ra 
những vẻ đẹp và sắc màu đa dạng cuả con Sông Đà chảy dọc suốt miền Tây Bắc này. Từ 
trên cao nhìn xuống tác giả thấy Sông Đà giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”. Ở 
những quãng yên tĩnh, thì Sông Đà quả thật rất thơ mộng như một người đàn bà kiều 
diễm với vẻ đẹp “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân 
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn 
khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nghệ thuật nhân hóa đã được mở ra tuyệt đối làm người 
đọc dường như không còn nhận ra đây là con sông nữa mà là một mỹ nhân đang làm 
duyên làm dáng với Tây Bắc. Thật gợi cảm biết bao! 
+ Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận 
ra những sắc màu khác nhau của Sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng. Qua làn 
mây mùa xuân, Sông Đà xanh màu ngọc bích. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, 
không có sự pha tạp có thể hiểu là trong vắt chứ nó không gợn thứ sắc màu đùng đục 
như màu xanh canh hến của sông Gâm và sông Lô. Qua ánh nắng mùa thu “Sông Đà lừ 
lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này tạo cho 
người đọc không ghê rợn trước màu đỏ mà ngược lại rất thích thú bởi màu nước sông Đà 
mang vẻ đẹp của màu đỏ rất đáng yêu trên mặt người “bầm đi vì rượu bữa”. 
+ Trữ tình và đáng yêu hơn nữa khi Nguyễn Tuân dùng những hình ảnh dịu dàng trong 
sáng nhất để tả đôi bờ sông Đà bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông 
Đà như một “cố nhân”. “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu 
mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn 
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm lộc đâm chồi. Bờ sông hoang dại như 
một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã để 
cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven 
sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy 
sức cuốn hút của dòng sông. * Nghệ thuật miêu tả: Thành công của tùy bút “Sông Đà” là nhờ vào ngôn ngữ đặc sắc, 
sử dụng nhiều ngôn ngữ, kiến thức của nhiều lĩnh vực (thể thao, điện ảnh, quân sự ); 
văn phong khoa học; nhiều biện pháp tu từ: nhân hoá, so sánh 
=> Tóm lại, bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa. 
Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, 
làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng 
vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút 
Nguyễn Tuân. 
 b. Hình tượng người lái đò Sông Đà: Trí dũng và tài hoa. 
* Vẻ đẹp ngoại hình ông lão được Nguyễn Tuân khắc họa: Bước vào cái tuổi bảy mươi, 
đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm 
thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu 
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái 
tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên 
một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ 
gọi là “thứ Huân chương lao động siêu hạng”. Ông lái đò sông Đà này có “tay lái ra hoa” 
đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. 
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi 
sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng 
con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần Sông, thần Đá. 
* Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn in đậm vẻ 
đẹp tâm hồn tính cách: 
@ Thứ nhất, thể hiện ở sự từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng 
lạch trên sông Đà. 
 Ông lái đò thể hiện sự hình thành “tính cách” của mình qua “trí nhớ ông được rèn 
luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng 
nước của tất cả những con thác hiểm trở . Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một 
trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và 
những đọan xuống dòng ”.” Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần 
sông, thần đá. Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Đó chính là hình ảnh của một 
con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng trải và giàu kinh nghiệm. @ Thứ hai, ở sự thông minh linh hoạt, dũng cảm như một viên tướng tài ba, như một 
nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà. 
 Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày 
nào cũng phải giành những cái sống từ tay nhưng con thác. Vẻ đẹp này được ngòi bút 
Nguyễn Tuân thể hiện qua hình ảnh ông lái đò vượt thác: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông 
lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh nghiệm thủy chiến. 
Chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi 
thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ở trùng vây 
thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: “Thạch trận dàn bày 
vừa xong thì cái thuyền vụt tới”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá “bệ vệ 
oai phong lẫm liệt” được nước thác “reo hò làm thanh viện” chúng liều mạng xông vào 
mà “đá trái” mà “ thúc gối vào bụng và hông thuyền Có lúc chúng đội cả thuyền lên”. 
Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên 
khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy 
hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “ hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” dù mặt 
méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền 
thoát khỏi nguy hiểm. 
Thật là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có! Cao cường biết bao ! 
Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: “Dòng thác hùm beo 
đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn công bằng cách “nắm 
chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi” ông cho con thuyền “phóng nhanh vào cửa sinh 
mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà 
rảo bơi chèo lên”, đứa thì bị “ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối 
cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất 
vọng”. 
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là “luồng chết cả”. Đã vậy, còn bố trí “bọn đá 
hậu vệ” canh cửa hòng “bắt chết” cái thuyền. Ông lái đò mưu trí “phóng thẳng con 
thuyền”, “chọc thủng” trùng vây rồi “vút qua cổng đá cánh mở cánh khép”. Chiếc 
thuyền như một mũi tên tre “vút, vút” xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông 
nước lại thanh bình. Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song 
toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được 
Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử 
dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến 
trận hào hùng. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, 
biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động : so sánh ngầm , nhân 
hóa , cường điệu Câu chữ tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh 
hòanh tráng . Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông 
theo hướng thọat đầu tưởng như không cân sức. Nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc 
về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Cuộc vượt thác thật ngoạn mục, ông lái 
đò thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa. 
@ Thứ ba, ở sự khiêm nhường, bình dị, phong thái ung dung mang cốt cách nghệ sĩ. 
 Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong 
cuộc sống của ông . Khi vượt qua gian nguy , sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ 
“sông nước lại thanh bình . Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam , 
và tòan bàn tán về cá anh vũ , cá dầm xanh Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào 
về cuộc chiến thắng vừa qua ” . Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng 
nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ . Song qua giọng văn nhẹ 
nhàng , ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò . Đó là sự khiêm nhường, bình 
dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác , nên nó 
cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ ”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. 
Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ . 
* Nghệ thuật miêu tả: Có thể nói Người lái đò sông Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa 
có tư thế của một người lao động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. 
Hình tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân ở 
giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò dù là người lao động bình dị vẫn hiện 
lên với chất tài hoa, nghệ sĩ; để miêu tả vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến 
thức của nhiều ngành khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh; câu văn 
trùng điệp, nhiều nhân hóa, so sánh, ẩn dụ 
=> Tóm lại, qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm 
phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn 
Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm 
miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ 
có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật. Họ là đối tượng của cái đẹp, của ánh sáng thẩm 
mĩ hiện đại. 
II. MỘT SỐ ĐỀ ÔN TẬP. 
1. Đề số 1: Viết về dòng sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, nhà văn 
Nguyễn Tuân miêu tả:“có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ 
kẻ thù số một”. Nhưng cũng có khi:“Con sông Đà gợi cảm Đã có lần tôi nhìn sông 
Đà như một cố nhân” 
(Nguyễn Tuân – Ngữ văn 12, tập 1, tr.187 và 191, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007) 
Bằng hiểu biết của mình, anh/chị hãy phân tích những vẻ đẹp trên của dòng sông 
Đà .Từ đó làm nổi bật nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. 
 Gợi ý làm bài 
A. MB: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm( xem phần I) và nêu vấn đề cần nghị luận 
B. TB 
a. Luận điểm 1: 
- Giới thiệu chung về tác phẩm ( Hoàn cảnh sáng tác, Chủ đề) ( xem phần I) 
- Giới thiệu về hình tượng con sông Đà: 
+ Hình tượng con sông Đà là một hình tượng nghệ thuật độc đáo của tùy bút Người lái 
đò sông Đà, góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật trung tâm: Người lái đò đồng thời 
thể hiện chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của tác giả. 
+ Qua hai lần miêu tả trên tác giả đã khái quát những vẻ đẹp của dòng sông Đà: 
-> Sông Đà hung bạo ->“kẻ thù số một” của con người 
-> Sông Đà trữ tình, gợi cảm ->“cố nhân” 
b. Luận điểm 2: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Đà ( xem phần I.3.a) 
* Con sông Đà hung bạo: HS phân tích các biểu hiện: 
– Lời đề từ: “Chúng thủy giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu” 
– Hình ảnh: 
+ Bờ sông đá dựng vách thành 
+ Ghềnh sông + Những hút nước trên sông 
+ Thác nước: đặc tả âm thanh thác nước 
+ Trận địa đá 
- Nghệ thuật: 
+ Sử dụng các biện pháp: điệp từ, điệp cấu trúc, nhân hóa, so sánh, so sánh trùng điệp 
+ Ngôn ngữ giàu có, giá trị tạo hình cao 
+ Hình ảnh ấn tượng, sự liên tưởng phong phú: nước xô đá , tiếng rống của một ngàn 
con trâu mộng, dùng lửa để tả nước, dùng rừng tả sông 
+ Giọng điệu: dồn dập, mạnh mẽ, gây cấn, đầy cảm xúc 
=>Tác giả nhấn mạnh vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, nguy hiểm vô cùng của dòng SĐ – “kẻ thù 
số một”của con người 
* Con sông Đà trữ tình : HS phân tích được các biểu hiện: 
– Hình dáng: mềm mại, duyên dáng (so sánh: áng tóc người thiếu nữ) 
– Màu sắc: theo mùa, mỗi màu mang một vẻ đẹp riêng : mùa xuân: xanh ngọc bích, mùa 
thu: lừ lừ chin đỏ -> những gam màu ấn tượng 
– Cảnh hai bên bờ sông: thơ mộng 
– Nghệ thuật: 
+ Giọng điệu: nhẹ nhàng, mượt mà, trữ tình 
+ Biện pháp: so sánh 
+ Hình ảnh: gợi hình, gợi cảm 
-> Hình tượng con SĐ mang vẻ đẹp riêng : quyến rũ và trữ tình, là bức tranh thủy mặc 
làm vương vấn lòng người. 
-> Tâm trạng tác giả: say sưa, đắm mình trong vẻ đẹp của SĐ 
* Đánh giá chung: 
– Sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Hai nét tính cách này không đối lập mà bổ sung 
cho nhau làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của SĐ – chất vàng của thiên nhiên vùng Tây Băc. 
– Qua việc ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, tác giả đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình 
yêu đất nước say đắm thiết tha. 
c. Luận điểm 3: Nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân 
Phong cách nghệ thuật: độc đáo, tài hoa, uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi kiếm tìm 
cái đẹp: - Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ 
- Nguyễn Tuân luôn đi tìm cảm hứng mạnh trong sáng tạo nghệ thuật: Tô đậm những cái 
phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt, những ấn tượng đậm nét. 
– Nét tài hoa, uyên bác: 
+ Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc, hình 
thù, màu sắc của SĐ -> văn “khoe tài”, “bậc thầy của ngôn từ”” người làm xiếc trên 
ngôn từ” 
+Vận dụng kiến thức nhiều bộ môn nghệ thuật, ngành khoa học 
- Thành công ở thể loại tùy bút 
C. Kết bài: Đánh giá chung về hình tượng, tác phẩm. 
2. Đề số 2: Trong đoạn trích Người lái đò sông Đà nhà văn Nguyễn Tuân từng miêu 
tả “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc qui luật 
phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Và sau cuộc chiến trên mặt trận sông 
nước thì “đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá. Nướng ống cơm lam và toàn bàn về 
cá anh vũ cá dầm xanh cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng 
vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”. 
(Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2011, tr.189 và 
tr.190) 
Phân tích hình ảnh người lái đò trong hai tình huống trên để làm nổi bật vẻ đẹp của 
nhân vật này. 
 Gợi ý làm bài 
A. MB: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm( xem phần I) và nêu vấn đề cần nghị luận 
B. TB 
a. Luận điểm 1: Giới thiệu chung về tác phẩm ( Hoàn cảnh sáng tác, Chủ đề) ( xem 
phần I) 
b. Luận điểm 2: Phân tích hình tượng người lái đò ( xem chi tiết tại phần I. 3.b) 
* Chân dung, lai lịch: 
– Tên gọi là người lái đò Lai Châu, đã 70 tuổi, làm nghề lái đò đã 10 năm. – Chân dung: “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, 
gò lại như kẹp lấy cuống lái; giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông; 
nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”. 
* Tài trí phi thường, dũng cảm tài hoa: 
– Nắm chắt binh pháp của thần sông, thần đá; thuộc quy luật phục kích của lũ đá 
– Biết từng của sinh, của tử trên thạch trận; nắm chắt quy luật của dòng nước sông Đà. 
– Như một vị tướng lão luyện, dày dạn kinh nghiệm, bình tĩnh tiến vào trận địa và chỉ 
huy cuộc vượt thác tài tình vượt qua ba trùng vi. 
* Tâm hồn bình dị: 
Là người có phong thái ung dung, ông nhìn thử thách bằng cái nhìn bình dị mà không 
thiếu vẻ đẹp lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc bị thương. 
* Nghệ thuật: 
Nhà văn sử dụng tri thức hội họa, điện ảnh, võ thuật, quân sự một cách tài hoa, uyên bác 
để diễn tả sinh động tài nghệ của nhân vật. 
c. Luận điểm 3: Bình luận – mở rộng: 
– Ngòi bút của tác giả hướng đến những con người lao động bình thường đang âm thầm 
cống hiến cho đất nước. Ông phát hiện ra nét tài hoa nghệ sĩ của họ được thể hiện ngay 
trong công việc lao động vô cùng nguy hiểm nhưng cũng vô cùng cao cả của mình. 
Nguyễn Tuân gọi đó là “Cái thứ vàng mười”. 
– Nhà văn nêu lên quan niệm: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có 
trong cuộc sống lao động đời thường và bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng 
khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt. 
C. Kết bài 
3.Đề số 3: Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả con 
sông Đà: 
“ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình Bờ sông hồn nhiên 
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” 
(Nguyễn Tuân- Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, tr.191) 
Anh/ chị hãy phân tích vẻ đẹp của sông Đà trong đoạn trích trên, từ đó hãy nhận 
xét cách viết của nhà văn đã thay đổi như thế nào? 

File đính kèm:

  • pdfon_tap_ngu_van_lop_12_van_ban_nguoi_lai_do_song_da.pdf