Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Sóng"
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Sóng"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Sóng"

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP: SÓNG – XUÂN QUỲNH I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Xuân Quỳnh - Là nhà thơ có cuộc đời bất hạnh, Xuân Quỳnh luôn khao khát tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử. - Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khao khát hạnh phúc bình dị đời thường; cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu. 2. Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ: – Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. 3. Kết cấu hình tượng: Bao trùm toàn bài thơ là hai hình tượng Sóng và Em. Sóng và Em có lúc sóng đôi có khi hòa làm một, Sóng là Em mà Em cũng là Sóng, cùng thể hiện vẻ đẹp của nữ sĩ Xuân Quỳnh- người phụ nữ khi yêu. 4. Chủ đề: Qua hình tượng sóng, XQ diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng tình yêu với những cung bậc tình cảm phong phú và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu, hồn nhiên chân thật, say đắm nồng nàn, đôn hậu, thủy chung. 5. Nội dung chi tiết của tác phẩm 5.1. Khổ thơ 1: là những cung bậc của sóng và cũng là những cung bậc trong tình yêu của người phụ nữ: – Hai câu thơ đầu với nghệ thuật đối: “Dữ dội – dịu êm”; “Ồn ào – lặng lẽ” đã làm hiện lên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố phong ba thì biển “dữ dội – ồn ào” còn những giây phút sóng gió đi qua biển lại hiền hòa trở về “dịu êm – lặng lẽ”. “Sóng” cũng là ẩn dụ cho tâm trạng người con gái khi yêu. Tình yêu của người phụ nữ cũng không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Bởi có lúc họ yêu rất dữ dội, yêu mãnh liệt hết mình với những nhớ nhung, đôi khi ghen tuông giận hờn vô cớ nhưng cũng có lúc họ lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng yêu, họ “lặng lẽ”, “dịu êm” ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm. – Hai câu tiếp theo tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa để nói đến hành trình đi tìm tình yêu của sóng: Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể + Ba hình ảnh “sông”, “sóng”, “bể” như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mông vô tận. Sóng không cam chịu một cuộc sống đời sông chật hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. + Tình yêu của người phụ nữ cũng vậy, họ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mới mẻ của người phụ nữ thời đại. 5.2.Khổ thơ thứ hai: Nhà thơ khẳng định- Tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, nó làm bồi hồi, xao xuyến rung động trái tim của lứa đôi, của con trai con gái, của em và anh. – Hai câu thơ đầu, từ “Ôi!” cảm thán là nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế muôn đời “vẫn thế” không bao giờ thay đổi, vẫn “dữ dội, ồn ào” vẫn “dịu êm, lặng lẽ”. – Hai câu thơ sau, nhà thơ khẳng định tình yêu luôn là khát vọng là ước mơ của nhân loại, đặc biệt là tuổi trẻ. Tình yêu luôn làm cho cuộc sống của tuổi trẻ có ý nghĩa, trở nên tròn vẹn hơn. 5.3.Khổ thơ thứ ba, bốn: Xuân Quỳnh băn khoăn nghĩ suy về anh và em, về nơi tình yêu bắt đầu : – Khổ thơ thứ ba: Người phụ nữ đang đối diện với “muôn trùng sóng bể” và chợt bâng khuâng nghĩ suy về anh và em “Em nghĩ về anh, em” rồi lại hướng nghĩ suy về biển lớn “Em nghĩ về biển lớn”. Điệp ngữ “Em nghĩ” được nhắc lại hai lần đã thể hiện được nỗi niềm băn khoăn trăn trở của thi sĩ. Những nghĩ suy ấy tất cả là để đặt một câu hỏi lớn: “Từ nơi nào sóng lên ?”. Đây cũng là khổ thơ làm tiền đề cho những suy tư, trăn trở của Xuân Quỳnh ở khổ thơ thứ tư. - Khổ thơ thứ tư, nhà thơ lý giải về nguồn gốc của sóng của gió, và qua đó tự bâng khuâng về khởi đầu của tình yêu: + Câu thơ đầu nhà thơ tự lý giải nguồn gốc của sóng là từ gió “Sóng bắt đầu từ gió” nghĩa là sóng biển là khởi đầu từ gió, nhờ gió mà có sóng lên. Nhưng ở câu thơ thứ hai nhà thơ lại không lý giải được nguồn gốc của gió “Gió bắt đầu từ đâu”. Thế là đã rõ, dẫu ra đến tận bể rồi nhưng rốt cuộc “Sóng” vẫn “chưa hiểu nổi mình”. Em đã hòa nhập vào “biển lớn của tình yêu” rồi mà em vẫn chưa hiểu em. Đến lúc này thì đúng là nhà thơ phân vân thật sự và đành lắc đầu bất lực “Em cũng không biết nữa”. + Câu thơ “Khi nào ta yêu nhau” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, rất ư là nữ tính. Kì lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Xuân Diệu – ông hoàng của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu “Đố ai định nghĩa được tình yêu/ Có khó gì đâu một buổi chiều/Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”. Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người đi tìm và khám phá. Càng khám phá càng thú vị, càng khám phá càng đẹp. Hay nói đúng hơn, đối với những tình yêu chân thành không tính toán, vụ lợi thì càng yêu say đắm thì càng khó lý giải ngọn ngành. 5.4.Khổ thơ năm, sáu: Nỗi nhớ trong tình yêu, sự thủy chung của người phụ nữ khi yêu - Khổ thơ thứ năm bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho nguời đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh: + Hai câu thơ đầu với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng). Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. + Hai câu sau là để diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ. Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu. + Hai câu cuối là lúc mà hình tượng “em” hiện ra. Ấy chính là nỗi lòng người phụ nữ đang yêu: nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức: Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức. Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh, đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung). Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. - Khổ thơ thứ sáu là tiếng nói thể hiện sự thủy chung của người con gái trong tình yêu: + Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập (“dẫu xuôi – dẫu ngược”). Cách nói ấy hơi ngược. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Đặc biệt là các từ chỉ mức độ: “xuôi – ngược” cùng gợi lên sự gian nan vất vả: “xuôi Nam ngược Bắc” , đi Nam về Bắc Lại thêm dẫu xuôi, dẫu ngược nữa thì lại càng xa cách nghìn trùng. Nhưng nói như thế, Xuân Quỳnh đã làm hiện rõ lòng mình: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh”. + Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về phương anh. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã dành “hệ qui chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi. 5.5. Khổ thơ bảy, tám, chín: Nhà thơ thể hiện niềm tin vào tình yêu, những suy tư trăn trở về tình yêu, khao khát bất tử hóa tình yêu - Khổ thơ thứ bảy: Nhà thơ thể hiện niềm tin của mình vào tình yêu đích thực. Nhà thơ nhìn những con sóng ngoài đại dương và thấy được hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu con sóng biển. Và những con sóng đó đang hướng vào bờ dù gặp bao nhiêu khó khăn trắc trở. Đó cũng là ẩn dụ nghệ thuật để chỉ tình yêu mãnh liệt của người con gái. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn cội yêu thương “con nào chẳng tới bờ”, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi “dù muôn vời cách trở”. Và gian nan thử thách là những điều không thể thiếu trong tình yêu lứa đôi. Nhưng qua thử thách tình yêu mới thực sự vững bền. - Khổ thơ thứ tám: Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những nhung nhớ giận hờn thì đoạn thơ này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng là trực cảm của tình yêu. Có lẽ cũng là vì Xuân Quỳnh là người phụ nữ đa cảm luôn luôn dự cảm những giông bão cuộc đời dù lòng chị vẫn tin yêu. Trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng gặp nhiều trắc trở, những khổ đau, cay đắng. Bởi vậy, tình yêu với chị đôi khi chỉ là khoảnh khắc: Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn Hôm nay yêu mai có thể xa rồi (Nói cùng anh) + Tác giả sử dụng phép so sánh: lấy cái không gian để nói cái thời gian. Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn khoăn của chị. Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo và những ngậm ngùi. Cuộc đời tuy dài nhưng tuổi trẻ của mỗi con người là hữu hạn. Cho nên không thể ngăn nổi “năm tháng vẫn đi qua”. Giống như biển khơi kia “dẫu rộng” vẫn nào ngăn được một đám mây bay về cuối chân trời. Nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian nên Xuân Quỳnh tiếc cho sự hữu hạn của đời người. Ở điểm này, Xuân Diệu cũng rất đồng cảm với Xuân Quỳnh: Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời + Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu. - Khổ thơ thứ chín: Bốn câu thơ khép lại bài thơ “Sóng” là khát vọng mãnh liệt của nhà thơ Xuân Quỳnh. Đó là khao khát muốn mình “được tan ra” thành “trăm con sóng nhỏ”. Sóng chỉ thực sự là sóng khi nó hòa chung vào muôn điệu của đại dương bao la. Tình yêu của con người cũng vậy, nếu chỉ biết giữ cho riêng mình thì sẽ tàn phai theo năm tháng. Và tình yêu sẽ chỉ bất tử khi tình yêu đó hòa vào biển lớn của tình yêu nhân loại. Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Để ngàn năm còn vỗ”. Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh? Vâng! Đây chính là khát vọng mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ với trái tim hồn hậu, chân thành, giàu trực cảm. 6. Nghệ thuật đặc sắc: - Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào, như âm điệu của những con sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu. - Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng và cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng - Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ tính - Xây dựng hình ảnh ẩn dụ - với hình tượng sóng, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ - Bài thơ sử dụng các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, đối lập - tương phản,... II. MỘT SỐ ĐỀ ÔN TẬP. 1.Đề 1: Vẻ đẹp truyền thống và hiện đại qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh Gợi ý: 1.1.Khái quát về tác giả Xuân Quỳnh, tác phẩm Sóng. Sau đó đưa ra vấn đề nghị luận- Vẻ đẹp truyền thống và hiện đại qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh 1.2. Giải thích - Vẻ đẹp hiện đại ở trong bài thơ sóng là sự chủ động táo bạo của người con gái đang yêu với khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết. Đó là những rung động rạo rực cùng một trái tim yêu luôn luôn có niềm tin vào sức mạnh của tình yêu - Vẻ đẹp truyền thống là về đẹp mang tính kế thừa gắn liền với người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa. Đó là sự giãi bày kín đáo ý nhị cùng với lòng thuỷ chung, son sắt nhưng cũng không dấu nổi những lo âu trăn trở về tình yêu và đời người. 1.3. Phân tích - Vẻ đẹp hiện đại Ý 1 : Người con gái chủ động đến táo bạo, cương quyết rời bỏ không gian tù túng chật hẹp để đến với biển lớn bao la rộng lớn minh mông để nhận thức về mình hiểu mình và được là mình ( 2 câu sau khổ 1) Ý 2: Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở khát vọng tình yêu mãnh liệt luôn âm ỉ, bùng cháy trong trái tim người con gái.( khổ 2) Ý 3 : Vẻ đẹp hiện đại được thể hiện qua khao khát khám phá và nhận thức đầy chủ động của một cảm xúc mãnh liệt ( khổ 3,4) Ý 4 : Về đẹp của người con gái mang đậm dấu ấn hiện đại khi chủ động bày tỏ nỗi nhớ của mình, chủ động trên con đường kiếm tìm hạnh phúc ( khổ 5) Ý 5 : Vẻ đẹp hiện đại được thể hiện ở khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu cho cuộc đời để tình yêu trở nên bất tử ( khổ 9) - Vẻ đẹp truyền thống Bằng một cách ý nhị và kín đáo nhất, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để diễn tả những cung bậc cảm xúc, Những quy luật tình cảm muôn đời của người con gái khi yêu. Ý 1 : Vẻ đẹp truyền thống được biểu hiện ở những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất trong trái tim người con gái đáng yêu ( 2 câu đầu khổ 1). Ý2: Trái tim luôn thuỷ chung son sắt Hương đến người mình yêu của người phụ nữ là biểu hiện của một về đẹp mang đậm tính truyền thống của người con gái Việt Nam ( khổ 6). Ý 3 : Về đẹp truyền thống biểu hiện ở niềm tin mãnh liệt vào tình yêu mặc cho muôn vàn trở về trước của người con gái ( khổ 7) 1.4. Đánh giá nghệ thuật Bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ không có dấu câu, nhịp ngắn 2/3 nhịp nhàng đều đặn góp phần tạo nên âm hưởng của những con sóng vào bờ không nguôi không dứt. Bên cạnh đó Xuân Quỳnh còn tập trung xây dựng hai hình ảnh song hành song đôi "sóng - em". Sóng là ẩn dụ của em với tâm hồn giàu khát vọng và những biến động phong phú phức tạp. Đôi khi em trách mình ra khỏi sóng soi mình vào lòng sống để nhận thức rõ hơn về tâm hồn mình. Bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị mộc mạc nhưng cũng rất trẻ trung giàu nữ tính giàu sức gợi hình, có tính nhạc và biểu cảm cao. Nhà thơ sử dụng rộng rãi những biện pháp tu từ như nhân hóa, điệp cấu trúc kết hợp với giọng điệu linh hoạt lúc sôi nổi nồng nàn trong khát vọng hạnh phúc, lúc lắng xuống với những trăn trở suy tư về hạnh phúc của cuộc đời. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng nhịp nhàng vỗ vào bờ cát lúc mạnh mẽ lúc dịu êm 2. Đề 2: Trong hai khổ thơ đầu của bài thơ Sóng, nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức về tình yêu: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ Đến hai khổ thơ cuối, tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử: Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tình yêu trong các khổ thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em. 2.1. Khái quát sơ lược về tác giả Xuân Quỳnh, tác phẩm Sóng và 2 đoạn thơ cần nghị luận. 2.2. Cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu trong hai khổ thơ. - Khổ 1- 2, nhân vật trữ tình soi mình vào sóng để nhận thức về tình yêu. + Những dạng thức tồn tại của sóng cũng là những trạng thái tâm hồn đầy mâu thuẫn, phức tạp trong tình yêu của em: dữ dội - dịu êm; ồn ào - lặng lẽ + Con sóng luôn muốn tìm đến đại dương bao la để thỏa sức vẫy vùng vì không chịu được sự nhỏ bé, hạn hẹp của những dòng sông. Em cũng thế, cũng luôn muốn tìm thấy một tình yêu bao dung, rộng lớn để có thể “hiểu nổi mình”. + Sóng luôn tồn tại như một quy luật bất biến trên cõi đời, khi nào trái đất còn quay thì đại dương vẫn còn bao la, xanh thẳm, dù xưa hay nay “vẫn thế”. Tình yêu cũng trở thành quy luật bất biến trong đời sống nhân loại, nhất là tình yêu luôn gắn với tuổi trẻ hồn nhiên, sôi nổi, nhiệt thành như tình yêu của em. - Khổ 8- 9: tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử. + Khi đứng trước đại dương, em - cái tôi trữ tình của người con gái đang yêu - nhận ra rằng biển cả dù lớn thì cũng đều có giới hạn: bến bờ. Từ đó, trong lòng em gợn lên những suy tư, trăn trở, lo âu khi nhận ra sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người (Khổ 8, “cuộc đời tuy dài thế ). + Biển cả dẫu có giới hạn như cuộc đời mỗi người nhưng những con sóng không bao giờ ngơi nghỉ cũng như tình yêu đã trở nên bất diệt, song hành mãi mãi cùng nhân loại. Từ những chiêm nghiệm ấy, em đã ao ước, khát khao hướng đến một tình yêu trường tồn, vĩnh hằng; cái tôi yêu đương đã sẵn sàng dâng hiến để trở nên bất tử. (Khổ 9, “Làm sao được tan ra ”). - Những đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ năm chữ nhịp ngắn, giàu nhạc điệu; hình ảnh ẩn dụ đồng hiện giữa “sóng” và “em”; từ ngữ, hình ảnh khơi gợi nhiều cảm xúc . 2.3. Nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em. - Sự vận động của hình tượng sóng. + Ở hai khổ đầu, sóng chỉ đơn thuần là một chi tiết nghệ thuật được nhân vật trữ tình chiêm ngưỡng với những suy ngẫm sâu xa để từ đó phát hiện giữa sóng và em có những tương đồng đến kì lạ: đầy phức tạp, bí ân nhưng đã khái quát hóa thành quy luật trường tồn. + Đến hai khổ cuối, sóng không còn đóng vai một đối tượng khơi gợi cảm xúc nữa mà thật sự đã trở thành một hình tượng song hành, đồng hiện cùng với hình tượng “em”. Khát vọng của em đã tan ra thành “trăm con sóng”; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình yêu trường tồn để âm giai của cả em và sóng cùng hòa nhịp đến vĩnh hằng “ngàn năm còn vỗ”. - Sự vận động của hình tượng “em”. + Em ở hai khổ thơ đầu là một cái tôi đang nung nấu một tình yêu cháy bỏng, đầy cung bậc cảm xúc. Cái tôi ấy dễ dàng rung động trước hình ảnh giầu tính biểu cảm với tình yêu như sóng và cái tôi ấy cũng ẩn chứa bao giai điệu đẹp của khát vọng, của những nỗi bồi hồi trong trái tim của một cô gái trẻ. + Đến hai khổ cuối, qua một hành trình đồng hành cùng sóng với những bí ẩn không lời đáp, với nỗi nhớ, với khát khao vượt qua tất cả để hướng về nhau, cái tôi tình yêu trong em dường như đã có sự trưởng thành. Không còn là một cái tôi đầy xúc cảm phức tạp nữa mà suy tư của em đã tập trung cho những lo âu, trăn trở về một cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn có thể biến tình yêu thành điểm chết tuyệt vọng. Đó vẫn là một cái tôi đầy mãnh liệt, khao khát nhưng không phải từ một ái tình liều lĩnh, bất chấp mà là cái tôi muốn hòa vào sự bất tử của thiên nhiên để hát mãi khúc tình ca. - Em và sóng từ hai hình tượng tách bạch, đơn lẻ đã có sự hòa quyện, đồng điệu trong ngòi bút đầy tinh tế. Sự vận động của hai hình tượng cũng là sự chuyển biến trong mạch cảm xúc của Xuân Quỳnh, nhà thơ vốn dĩ đã đầy khao khát yêu thương. 3. Đề 3: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh (chị) cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng này. Gợi ý: 3.1. Khái quát về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận: 3.2. Phân tích hình tượng sóng: Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ và là một hình tượng ẩn dụ. Cùng với hình tượng em (hai hình tượng này song hành suốt tác phẩm), sóng thể hiện những trạng thái, quy luật riêng của tình yêu cùng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ rất truyền thống mà rất hiện đại. + Sóng có nhiều đối cực như tình yêu có nhiều cung bậc, trạng thái và như tâm hồn người phụ nữ có những mặt mâu thuẫn mà thống nhất (phân tích hai câu đầu với kết cấu đối lập - song hành và với việc đặt các từ dịu êm, lặng lẽ ở cuối câu tạo điểm nhấn). + Hành trình của sóng tìm tới biển khơi như hành trình của tình yêu hướng về cái vô biên, tuyệt đính, như tâm hồn người phụ nữ không chịu chấp nhận sự chật hẹp, tù túng
File đính kèm:
on_tap_ngu_van_lop_12_van_ban_song.pdf