Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Vợ nhặt"

pdf 17 trang Mạnh Nam 05/06/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Vợ nhặt"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Vợ nhặt"

Ôn tập Ngữ văn Lớp 12 - Văn bản "Vợ nhặt"
 VỢ NHẶT – KIM LÂN 
PHẦN I: KIẾN THỨC CƠ BẢN 
 1. Xuất xứ . 
 Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay 
sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại 
(1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm 
được in trong tập Con chó xấu xí (1962). 
 2.Tóm tắt. 
 Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân 
ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo 
Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói 
khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân 
phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau 
trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tràn đầy hi vọng vào tương lai. 
 3.Ý nghĩa nhan đề. 
 – Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta 
có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc 
lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, 
không thể qua quýt, coi như trò đùa. 
 – “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. 
Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có 
người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng 
trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản 
thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện 
Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông 
dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. 
4.Tình huống truyện. 
 – Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được 
vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh. 
– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Thời 
buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ. Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm 
ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào 
tin được vào điều đó. 
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà 
còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị 
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. 
 5. Nhân vật 
5.1 Tràng. 
 *Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát: 
– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu. 
– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn 
những búi cỏ dại. Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ. 
 – Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được 
vợ. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua 
hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”: 
+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt 
“Muốn .”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích 
lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến 
như thế. 
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, 
trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn 
gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà 
người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động 
mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và 
cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, 
Tràng nói đùa với thị “Này rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết 
định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ” 
* Niềm hạnh phúc khi có vợ : 
– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười 
tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên 
của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người - Tràng 
đã có vợ. 
 – Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu 
nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông 
ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và 
thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ 
về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng 
đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với 
nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái. Có thể nói, Kim Lân đã rất 
chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân 
nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao 
mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây. 
 – Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau : 
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”. 
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước 
sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; 
hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng 
những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với 
anh thật giản dị. 
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh 
sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. 
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền 
hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa. 
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. 
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một 
nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, 
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, 
như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc 
của cái đói tung lưới bủa vây. 
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn 
ngập sự đầm ấm, hoà hợp. – Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi 
trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về 
sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành 
lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác 
phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng 
mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta. 
5.2 Thị (người “vợ nhặt”). 
 – Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một 
không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với 
mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, 
không gia đình môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái 
đói đã cướp đi của thị tất cả. 
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và 
tính cách của chị: 
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn 
đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy” 
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng) Thị 
cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh cắm đầu ăn một 
chặp bốn bát bánh đúc ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị 
thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng 
về hạnh phúc và sự sống. 
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ 
nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp 
của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ 
cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi 
cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ 
trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh 
liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy 
của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt. 
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên 
trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động: + Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa 
mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, 
cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận 
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp 
nhận bước vào cuộc đời của Tràng. 
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng 
thương 
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm 
gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ 
trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh 
đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức 
mạnh làm thay đổi một con người. 
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân 
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng 
gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ 
rúng có thể nhặt được 
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên 
cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời 
không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và 
cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt. 
5.3 Bà cụ Tứ . 
 – Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện 
ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ - mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản 
chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim 
Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy 
chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau. 
 – Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ 
ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất 
định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà 
đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu 
giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực 
sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ 
ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao 
giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế. 
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là 
cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ 
biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà 
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai 
mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng 
cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì ”. Bà lão chua chát, tự trách bản 
thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, 
những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã 
gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn. 
– Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình 
người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. 
Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải 
kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm 
trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ 
nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt 
nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người 
quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ 
ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba 
đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ 
trước mắt mà lòng đầy thương xót. 
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về 
với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà 
lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người 
mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ 
về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, 
thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. – Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ 
về một tương lai tươi sáng phía trước: 
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy 
những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời 
sẽ có cơ khấm khá. 
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối 
thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – 
cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con - những 
nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại. 
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. 
Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. 
Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung - mười cái 
trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các 
con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật 
lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi - Còn da lông 
mọc, còn chồi nảy cây”. 
 – Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng 
trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả 
hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời 
đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương 
con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi. Với sự thấu hiểu, với sự 
đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ - người mẹ thương con, nhân hậu, 
bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con 
dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa 
sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ. 
6. Giá trị hiện thực, nhân đạo. 
6.1. Giá trị hiện thực: 
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân 
tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 : 
 + Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi. + Dòng thác người đói vật vờ như những 
bóng ma. + Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. + Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi 
thê thiết. 
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối. 
 + Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát. 
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt. 
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. 
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn 
đói năm 1945. 
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính 
xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng. 
6.2. Giá trị nhân đạo. 
 + Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ. 
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng 
khiếp. 
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao 
động nghèo. 
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương 
lai tươi sáng. 
7. Nghệ thuật. 
 – Xây dựng tình huống truyện độc đáo. 
– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách 
nhân vật. 
– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng. 
– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế. 
– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất 
Bắc Bộ. 
8. Chủ đề. 
 Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn 
nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện 
vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy 
vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. PHẦN II: MỘT SỐ ĐỀ ÔN TẬP 
* ĐỀ 1: 
 Có ý kiến cho rằng: “Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng 
được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng 
của con người”. Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt, 
anh/chị hãy bình luận ý kiến trên? 
 Hướng dẫn làm bài 
I. Mở bài: 
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 
– Nêu nội dung ý kiến: khẳng định thành công của tác giả trong việc xây dựng tình 
huống độc đáo (tính chất bất thường), giàu ý nghĩa nhân bản (thể hiện khát vọng bình 
thường của con người). 
II. Thân bài: 
1. Khái niệm tình huống truyện: 
- Tình huống truyện luôn giữ vai trò hạt nhân của cấu trúc thể loại. Nó là hoàn cảnh 
riêng được tạo nên bởi sự kiện đặc biệt, khiến hiện thực đời sống đó hiện lên đậm đặc 
nhất, ý đồ tư tưởng của tác giả cũng bộc lộ đậm nét nhất, tính cách nhân vật được bộc lộ 
sắc nét nhất. 
- Tình huống trong Vợ nhặt là tình huống nhặt vợ giữa lúc nạn đói khủng khiếp đang 
xảy ra ở miền Bắc nước ta. Đây là tình huống lạ, éo le, hấp dẫn. Qua đó giá trị hiện thức 
và giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rất sâu sắc. 
2. Phân tích cụ thể: 
a. Tình huống lạ: 
- Cái lạ của tình huống thể hiện ngay ở nhan đề Vợ nhặt: 
+ Lấy vợ, lấy chồng là chuyện quan trọng của đời người. Vậy mà anh nông dân trong 
truyện đã nghèo, lại xấu trai, lại là dân ngụ cư lại nhặt được vợ giữa cảnh đói khát đang 
tràn vào xóm ngụ cư “ người chết như ngả rạ những cái thây nằm còng queo bên 
đường” 
+ Chuyện nghiêm túc thiêng liêng trở thành trò đùa. Chuyện tưởng đùa lại là sự thật. 
Tình huống lạ này đã gợi đến thân phận bị rẻ rung của các nhân vật trong truyện nói riêng, của nhân dân ta nói chung trong nạn đói 1945 do bạn thực dân Pháp và phát xít 
Nhât gây ra. 
- Cái lạ của tình huống thể hiện ở số phận các nhân vật: 
+ Những người dân trong xóm ngụ cư hết sức ngạc nhiên, xôn xao, thắc mắc. 
+ Ngay cả bà cụ Tứ cũng sững sờ ngạc nhiên. 
+ Tình huống bất ngờ càng trở nên lạ khi chính Tràng, kẻ nhặt được vợ cũng bán tín, 
bán nghi “ Ra hắn đã có vợ rồi ư?”. 
- Tình huống này lạ bởi: 
+ Sau hai lần gặp gỡ, một lời nói đùa “tầm phơ tầm phào”, bốn bát bánh đúc anh ta có 
vợ liền, mà lại là vợ theo không. 
+ Thời buổi đói khát mà Tràng lại đèo bong, đưa thêm miệng ăn về nhà. 
b. Tình huống éo le: 
- Éo le với các nhân vật: 
+ Với Tràng: cũng lo lắng “ chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có 
nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng vì thương cảm, Tràng đã “chậc,kệ” dứt khoát, 
chấp nhận bởi trước mắt anh là người đàn bà tiều tụy vì đói khát, lại trông cậy vào anh. 
Hơn nữa, như mẹ anh nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này mới lấy đến 
con mình. Mà con mình mới có vợ được” 
+ Với người vợ nhặt: đói đến tiều tụy, thảm hại; đói đến mức quên cả sĩ diện và cái 
duyên con gái, gợi ý để được ăn, đói đến mức theo không một người đàn ông gặp ngoài 
đường. 
+ Với bà cụ Tứ: long đầy mâu thuẫn trước cảnh ngộ éo le này 
- Éo le trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới: thật tội nghiệp 
Bữa ăn chỉ có cháo loãng ăn với muối và một lùm rau chuối thái rối; cám nấu. tất cả bày 
trên cái mẹt rách. Đây là chi tiết chân thật đến đắng lòng, đẩy tình huống truyện đến cao 
trào của sự éo le. 
3. Ý nghĩa của tình huống truyện: 
- Tình huống truyện làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm 
+ Tố cáo tội ác của bọn thống trị, gây nên số phận bi thảm cho đồng bào ta. 
+ Thể hiện và ca ngợi tình thương, niềm khát khao hạnh phúc bình dị của người lao 
động. 

File đính kèm:

  • pdfon_tap_ngu_van_lop_12_van_ban_vo_nhat.pdf