6 Đề ôn tập Ngữ văn Lớp 10 Sách Kết nối tri thức với cuộc sống

docx 15 trang Mạnh Nam 06/06/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "6 Đề ôn tập Ngữ văn Lớp 10 Sách Kết nối tri thức với cuộc sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: 6 Đề ôn tập Ngữ văn Lớp 10 Sách Kết nối tri thức với cuộc sống

6 Đề ôn tập Ngữ văn Lớp 10 Sách Kết nối tri thức với cuộc sống
 ĐỀ SỐ 1
Phần I. ĐỌC HIỂU(6,0 điểm)
Học sinh đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi phía dưới
 Ngôn chí – bài 10
 (Nguyễn Trãi)
 Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy.
 Có thân chớ phải lợi danh vây.
 Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,
 Ngày vắng xem hoa bợ (1) cây.
 Cây rợp chồi cành chim kết tổ,
 Ao quang mấu ấu (2) cá nên bầy.
 Ít nhiều tiêu sái (3) lòng ngoài thế,
 Năng một ông này đẹp thú này
 (Đào Duy Anh, Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học xã hội, 
1976)
Chú thích:
(1) Bợ cây: chăm nom, săn sóc cây
(2) Mấu ấu: mầm cây củ ấu.
(4) Tiêu sái: thảnh thơi, thoát tục.
(5) Năng: có thể, hay.
Câu 1: Bài thơ Ngôn chí 10 thuộc sáng tác nào sau đây của Nguyễn Trãi?
A. Văn chính luận
B. Thơ chữ Hán
C. Thơ Nôm
D. Thơ tự thuật
Câu 2: Văn bản Ngôn chí 10 thuộc thể thơ nào? Vì sao?
A. Thể thơ tự do, vì các dòng không theo quy luật
B. Thể thơ thất ngôn, vì mỗi dòng có 7 chữ
C. Thể thơ tứ tuyệt, vì có 4 khổ, mỗi khổ 4 dòng
D. Thể thơ thất ngôn bát cú xen lục ngôn vì có 7 dòng, mỗi dòng có 8 hoặc 6 chữ
Câu 3: Dòng nào nói lên đặc điểm thiên nhiên trong Ngôn chí 10- Nguyễn Trãi?
A. Cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp với màu sắc, âm thanh tươi tắn, rộn ràng
B. Hiện lên rất đa dạng, sinh động, có sức sống riêng
C. Những nét phác họa hết sức tài tình về vẻ đẹp hùng vĩ
D. Thiên nhiên thấm đẫm nỗi buồn của thi nhân
Câu 4: Bài thơ Ngôn chí 10 đã thể hiện:
A. Tình yêu thiên nhiên say đắm, nồng nàn của bậc hiền nhân
B. Sự gắn bó với làng quê của một nông dân hồn hậu, chất phác
C. Cách thưởng thức thiên nhiên của một nghệ sĩ
D. Thiên nhiên đầy ắp chất nhạc, chất họa
Câu 5: Nội dung hai câu luận nói về điều gì?
A. Cảnh vật, lòng người
B. Thú vui tao nhã
C. Sức sống nơi làng quê
D. Ít vướng bận,vui sống Câu 6: Câu thơ: Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy được hiểu là?
A. Quang cảnh vắng như cảnh chùa Bà Đanh
B. Quang cảnh thanh tĩnh như cảnh chùa, lòng người trong sạch như lòng thầy chùa 
chân tu
C. Lòng người lạnh băng, dửng dưng như thầy chùa chân tu
D. Lòng người như cảnh tĩnh lặng, hoang vắng
Câu 7: Dòng nào nói lên nội dung câu thơ: Có thân chớ phải lợi danh vậy?
A. Thân chớ bị vây bọc, lệ thuộc vào danh lợi
B. Có thân phải có danh lợi
C. Sống trong vòng vây danh lợi mới thú vị
D. Danh lợi là giá trị của bản thân
Câu 8: Câu thơ: Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén được hiểu là?
A. Uống rượu nghiêng chén uống cả trăng
B. Nghiêng chén uống rượu như hớp cả bóng trăng trong chén
C. Uống rượu và ngắm trăng trong chén
D. Thưởng trăng và uống rượu – thú vui tao nhã
Câu 9: Phân tích nghệ thuật đối đặc sắc và vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân được thể hiện 
qua hai câu thực của bài thơ (1đ)
Câu 10: Cảm nhận của em về bức chân dung tinh thần của Nguyễn Trãi qua bài thơ 
Ngôn chí 10 (viết từ 6-8 dòng) (1đ)
Phần II. VIẾT(4 điểm)
 Viết Văn Bản Nghị Luận Về Một Vấn Đề Xã Hội: Nghị Luận Về Tầm Quan 
Trọng Của Động Cơ Học Tập.
ĐỀ SỐ 2
I. ĐỌC HIỂU (6đ)
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi phía dưới
 BÀ LÃO LÒA
 (Vũ Trọng Phụng)
76 tuổi đầu, mỗi bữa thất thểu ăn một lưng cơm, bà lão lòa ở nhờ một đứa cháu họ, thật 
đã lắm phen cực nhục. Cháu bà, bác đánh giậm, với vợ, một chị mò cua bắt ốc, khốn 
thay, dưới nách hai đứa con mọn, cũng lắm phen nhăn nhó vì chẳng đủ ăn. Hai mươi 
năm về trước, bà lão lòa này còn là người có của trong làng. Con trai bà nó chơi, nó 
phá, nó bán ruộng, cầm nhà rồi nó bỏ bà nó đi, chẳng biết đi đâu, lòng mẹ đối với con 
tuy có giận mà vẫn có thương, bà khóc lóc một mình đến nỗi lòa cả mắt. Trong thời bà 
còn giàu có, ngoài những việc cúng tiền tô tượng đúc chuông, bà còn năng giúp đỡ kẻ 
nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà mà đến khi bà gặp bước 
khốn cùng thì chẳng ai thương cả. Cũng vì xưa kia đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy 
đồng tiền cứu giúp của bà, bác đánh giậm đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt nuôi cô 
trong lúc hoạn nạn. Nhưng vốn bị ma nghèo ám ảnh, mới nuôi cô được độ ba năm, bác 
đánh giậm đã thấy nản lòng. Cái cảnh túng bấn nó thường đẩy người ta vào chốn bùn 
nhơ, nó thường buộc người vào vòng tội lỗi, đối với bác đánh giậm, ác hơn, nó làm bác 
quên bỏ cả lương tâm. Quên hẳn cái ơn ngày trước, bác ta chỉ còn biết xót ruột khi bà 
lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác. Buổi chiều hôm ấy... Trước túp lều tranh xiêu vẹo như chỉ còn chờ một trận gió to là 
đổ ụp xuống, cái sân đầy những bã mía, lá khô, một mâm cơm bát đàn đũa mộc trong 
để đĩa cá rô kho chuối với đĩa cá đen sịt đen sì, cầm trên tay mấy bát cơm ngô vàng ói, 
bà lão lòa, bác gái và hai đứa bé chỉ còn chờ bác trai rửa mặt rửa chân tay, ngồi vào là 
cùng cầm đũa. Đàn ruồi vù vù bay lung tung như đánh trận, hết bâu đầy vào mấy nốt 
mụn chốc trên đầu thắng cụ còn lại bay xuống đặt mình vào đĩa cá.
Bác trai, người mảnh khảnh, đen như củ súng, trấn răn, má hợp, mặt kèm nhèm, mặc 
cái áo vải và đã đến năm mười miếng mụn, đóng khổ, vừa ngồi xổm xuống đất cầm lấy 
bát cơm, vợ đã vội hỏi:
- Bố nó hôm nay kiếm được bao nhiêu tất cả...? Ấy tôi chỉ được có bốn sóc cua hai xu 
với một mẹt tôm riu năm xu là bảy dãy thôi. Gạo ăn bữa mại hết rồi [ ]
Bà lão lòa, ăn hết một lưng, tay lấy bẩy chìa bát ra toàn xin ít nữa, chưa kịp nói, bác gái 
đã quát:
- Hết rồi... Còn đâu nữa mà chìa mãi bát ra... Đến tôi đây quần quật suốt ngày, đã ốm 
cả xác mà cũng chỉ được có ba lưng thôi đấy Bà không phải làm gì, ngồi nhà ăn ít 
cũng được.
Bà lão giật mình, đó người ra một lúc rồi đứng lên đi vào trong nhà, ngồi xuống bậu 
cửa, lấy cái tăm gài trên mái tóc xuống xỉa răng. trong trí nhớ của bà lại thấy hiện ra:
[....] Giữa chợ gần chỗ hàng gà, hàng cá, mùi hôi tanh xông lên nhức đầu, một đám 
đông xúm quanh một người đàn bà ăn mặc rách rưới, tay ôm đứa bé chừng bốn năm 
tháng.
- Thưa bà, cháu chỉ lấy có năm đồng thôi đấy ạ.
- Thôi, chả của đâu mà trả đến năm đồng. Trông gầy thế kia, biết rồi có sống được 
không? Ba đồng đấy, bằng lòng đi!...
- Rõ tội nghiệp chưa! Tôi mà có năm đồng thì tôi trả ngay..!
Bỗng có một bà ăn mặc lụa là, phúc hậu, len lỏi vào cất tiếng dõng dạc hỏi:
- Này nhà bác kia! Làm gì mà đến nỗi phải bán con đi thế?
- Thưa bà, nhà con phải bệnh, liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng nay, không có 
tiền thuốc thang gì thì chết mất. Con phải bán cháu đi để cứu lấy nhà con...
- Này..! Cứ ẵm cháu về, đừng có bán nó đi mà phải tội đấy! Năm đồng đây tôi xin 
giúp. Hãy cầm về mà liệu thuốc men cho bác trai. Người kia ngạc nhiên ngơ ngác nhìn 
lên, mãi chưa dám tin là thật, bàng hoàng như đang lúc chiêm bao phục ngay xuống 
đất mà rưng rức khóc. Đám người tản mát, có kẻ thì thào: người đâu mà phúc đức tệ.
Ấy đó, đổi lại bao nhiêu điều thiện xưa kia ông trời cay nghiệt nay đều trả bà bằng hai 
con mắt lòa với một cảnh ăn gửi nằm nhở cực kỳ khổ sở. Cho rằng kiếp xưa tiền oan 
nghiệp chướng chỉ đây, nghĩ thương mình, thương đứa con bất hiếu, thương vợ chồng 
con cái bác đánh giậm, bà lão lòa thổn thức, trên hai gò má răn reo lại thấy mấy giọt 
nước mắt chảy ròng ròng. Bà lão gục đầu xuống gối tỉ tê khóc không ra tiếng, chỉ thấy 
sụt sùi hậm hực, khiến thằng cu con lò rò bò đến với bà, không hiểu ra sao bỗng cũng 
khóc thét lên. Bác gái chạy vào bực mình xỉa xói [...]
- Trời làm đói kém thế này, vợ chồng chúng tôi không thể nuôi bà được nữa
đâu, bà phải liệu mà giúp đỡ chúng tôi mới được. Rồi từ mai trở đi, để thằng cháu nó 
giắt bà ra đầu đê, bà ngả nón dưới bóng cây gạo mà ngồi, thấy tiếng người chợ búa qua 
lại thì bà chìa rá ra xin, nếu có được mỗi ngày một vài xu cũng là đỡ được cái mồm bà 
rồi đấy... Đã được nửa tháng nay, sáng nào cũng thấy thắng cu lớn dắt bà ra ngồi đầu đê rồi 
chiều đến lại dắt về... Chẳng may, nếu hôm nào về tay không thì vợ bác đánh giậm - 
cháu bà - lại nghiến răng xỉa xói thậm tệ:
- Hôm nay chẳng ai thí cho bà đồng nào..! Bà có biết thế là bà lại ăn phần cơm của 
thăng cu lớn đấy không? Từ mai, bà liệu mà kêu to lên mới được... Hay tại bà ngồi 
dưới bóng cây mát mà ngủ thiếp đi...? Bà liệu đấy !
Bát cơm ngô điểm quả cà thiu, bà lão lòa trước khi và vào mồm đã chan đầy như canh 
bằng nước mắt.
Một ngày kia, trời tháng ba nắng gay gắt, bà lão lòa dưới gốc cây gạo, ngồi từ sáng đến 
quá trưa, bụng đã đói mềm mà chẳng thấy người khách đi đường nào vứt cho lấy một 
đồng trinh...bốn bề im lặng như tờ. Hai cánh tay khẳng khiu ôm lấy bụng mà nhăn nhó, 
cố quật lại với cái đói nó cào xé ruột gan, bà lão lòa thở hổn ha hổn hển.
Chợt có tiếng người giẫm lạo xạo trên đống lá khô, đi về phía mình bà lão vội chìa 
ngay nón:
- Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại...! Cứu cho thân tôi lấy một miếng cơm...
- Tôi đây...! Phải ai đâu mà lạy với lục...? Bà được đồng nào chưa thì đưa đây cho tôi...
- Đã được đồng nào đâu...? Chẳng thấy ai đi qua đây cả... Mẹ nó có dắt tôi về thì dắt, 
tôi đói lắm rồi...!
- Bà đói à? Bà đói thì dễ tôi no à? Bà hãy ngồi đấy xem sao, buổi chợ chiều nay, rồi họ 
về qua đây nhiều... chốc nữa, tôi sẽ bảo thằng cu nó ra nó dắt....
Rồi bác ta thoăn thoắt bước đi...Bỗng trên trời mây kéo đen nghịt tối sầm hẳn lại, rồi 
nổi một cơn giông. Bác đánh giậm chạy vội ra sân vơ quần áo đem vào nhà, giục thằng 
cu lớn mau mau chạy ra để dắt bà về kẻo mưa to gió lớn. Nghe câu ấy, bác gái ngồi ôm 
con một góc giường cau mày ngẫm nghĩ: Thật vậy! Ba bốn năm nay, bác ta đã nhịn 
như nhịn cơm sống ấy rồi, quá lắm thì không chịu được. Mặc kệ bà ấy! Để bà ấy chết 
quách đi cho rãnh mắt.
[....] Không, không! Không thể thế được... Bà lão ấy chỉ là một bà cô... mà lạ là cô họ 
chồng, có lẽ nào báo hại mãi nhau.
Kìa! Thằng cu! Tao bảo thế nào ? Không bỏ bếp đấy mà ra dắt bà về à?
Bỗng bác gái đặt phịch con xuống giường, quặn mình nhăn nhó:
- Ôi trời đất ôi...! Ôi trời đất ôi !
- Chết chửa làm sao thế? Sao thế hở mẹ nó?
- Sao mà bụng tôi cứ thấy đau xoắn lại thế này! Ối trời đất ôi, đau thế này thì đến chết 
mất thôi
- Chết chửa! Kìa thằng cu.. ẵm em dỗ đi.. dỗ đi cho nó nín rồi dậy đấm cho u mày một 
chốc để tao đi nướng hòn gạch mà chườm bụng vậy Rõ khổ chửa?
 [ ]Tiếng sấm động ù ù, mỗi khi chớp nhoảng chớp nhoáng nó lại nom rõ thấy giữa 
những vũng bong bóng phập phồng, những dây nước ròng ròng từ mái tranh rỏ xuống. 
Chợt nghĩ đến bà nó ở ngoài đầu đê không biết ra sao, quay lại nhìn thì bố nó vẫn lúi 
húi dọn cơm, nét mặt thản nhiên như không, thằng cu phụng phịu nét mặt, hỏi gắt:
- Kìa thày! Thế bà ở ngoài đầu đê,
Nó chưa nói hết cầu, bố nó đã như bị một luồng điện giật nảy người ra, mắt tròn xoe, 
mãi mới nói được.
- Chết chửa! Biết làm thế nào bây giờ. U mày đau bụng, kêu rồi rít lên, làm tao cũng 
quên bẵng đi mất - Thế thì chắc bà chết rét mất rồi... Còn gì nữa 
Nghĩ đến cái chết của bà lão lòa ở ngoài đầu đề - tình cháu đối với cô – bác đánh giậm 
rùng mình, rợn tóc gáy nhưng bác tự dối lương tâm, bác đáp lại con:
- Ôi già... chả việc gì phải sợ.. dễ bà lại không biết lần mò đến một cải quán nào đẩy 
mà ẩn hay sao...?
Rồi bác gọi vợ con dậy ăn cơm. Bữa ấy bác gái tuy kêu đau bụng mà cũng cố ăn được 
đến bốn năm lưng, mặc dầu hai đứa bé không thấy bà nó đâu, thường nhắc đi nhắc lại. 
Trời vẫn mưa, lúc to lúc nhỏ, rả rích suốt đêm.
Sáng hôm sau, ánh sáng mặt trời xé những đám mây bay tan tác, chiều xuống trông lại 
càng tươi càng đẹp. [...]
Bác đánh giậm hôm ấy dậy rất sớm, đóng khổ, cài rổ, vác vợt ra đi... Mon men ở dưới 
chân để, lội lõm bom qua mấy vũng bùn lầy xa xa, phía dưới cây gạo - chỗ bà lão lòa 
vẫn ngồi, bác thấy giữa ruộng, trong một đám mạ xanh tươi tốt, một đàn quạ, con bay 
con liệng, kêu sào sạc rồi đậu xúm xít vào một chỗ. Bụng tưởng hẳn là một tổ rắn chi 
đây, bác ta vác ngay một vợt tre lên mặt rồi phăm phăm chạy lại. Đàn quạ vùng bay lên 
rồi tản mác đi... Chao ôi! Bước vừa đến nơi thì bỗng bác ta rú lên một tiếng, trợn mắt 
rít răng mà ngã phục xuống.[ ]
 ( 
Câu 1: Những dấu hiệu KHÔNG cho biết văn bản trên là truyện ngắn?
A. Nhân vật ít
B. Dung lượng ngắn (gần 4 trang)
C. Sự việc diễn ra chủ yếu ở một gia đình
D. Phản ánh xã hội rộng lớn
Câu 2: Dòng nào nói lên thông tin từ nhan đề của tác phẩm?
A. Đề tài
B. Nhân vật chính
C. Chủ đề
D. Bức thông điệp
Câu 3: Nhân vật chính của truyện ngắn trên là?
A. Bà lão lòa
B. Hai mẹ con bà lão lòa
C. Bà lão lòa, hai vợ chồng người cháu họ
D. Hai bố con người cháu họ
Câu 4: Nội dung của đoạn mở đầu văn bản là?
A. Cực nhục và kí ức
B. Bà lão chết trong mưa gió
C. Gia cảnh bà lão lòa
D. Bà lão lòa phải đi ăn xin
Câu 5: Nội dung nào sau đây nén nhiều sự việc (hàm súc) có khả năng phản ánh số 
phận của nhân vật như tiểu thuyết?
A. Bà lão lòa phải đi ăn xin
B. Gia cảnh bà lão lòa
C. Bà lão chết trong mưa gió
D. Cực nhục và kí ức Câu 6: Đoạn có chứa nội dung Cực nhục và kí ức sử dụng thủ pháp nghệ thuật chính 
nào? Để làm gì?
A. Đối thoại để làm nổi bật bản chất của người cháu dâu
B. Tái hiện hồi ức để làm nổi bật tấm lòng nhân hậu của bà lão
C. Đối lập tương phản để khắc họa nỗi cực nhục hiện tại của bà lão
D. Đối thoại để làm nổi bật tình cảnh cơ cực của vợ chồng người cháu họ
Câu 7: Các sự việc trong tác phẩm được sắp xếp theo trình tự nào?
A. Thời gian
B. Không gian
C. Hiện thực, hồi ức đan xen
D. Tất cả các ý trên
Câu 8: Dòng nào nói lên cảm hứng bao trùm toàn tác phẩm?
A. Phê phán người cháu dâu tệ bạc
B. Xót thương cho bao kiếp người cơ cực
C. Ngợi ca tấm lòng cậu bé (con trai người cháu)
D. Lên án người con trai của bà lão lòa
Câu 9: Phân tích lời nói, hành động người cháu họ của bà lão lòa khi vợ kêu đau bụng, 
khi bà lão lòa ở ngoài đê trong mưa cho đến sáng hôm sau để thấy được bản chất con 
người này (1đ)
Câu 10: Em hãy viết tiếp câu chuyện về 3 nhân vật trong gia đình người cháu họ sau 
khi người chồng rú lên một tiếng, trợn mắt rít răng mà ngã phục xuống ngoài cánh 
đồng (khoảng 5-10 câu)(1đ)
PHẦN II. VIẾT (4 điểm)
Hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học mà anh/chị đã 
học hoặc đã đọc.
ĐỀ SỐ 3
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)
Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
 TỰ TRÀO
 Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
 Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
 Cờ đương dở cuộc không còn nước(1),
 Bạc chửa thâu canh đã chạy làng(2).
 Mở miệng nói ra gàn bát sách(3),
 Mềm môi chén mãi tít cung thang(4).
 Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
 Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!
 (Nguyễn Khuyến
(1) Không còn nước: bí không có nước đi khi đánh cờ.
(2) Chạy làng: đánh bạc nửa chừng, bỏ không chơi nữa.
(3) Gàn bát sách: thành ngữ chỉ suy nghĩ, hành động trái lẽ thường, khiến mọi người khó chịu (“bát sách” là 
tên một quân bài tổ tôm).
(4) Tít cung thang: trạng thái say sưa cao độ (“thang” là tên quân bài tổ tôm, đối với quân “bát sách” ở câu 
trên) Dẫn theo 
Khoanh tròn vào chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng cho các câu hỏi từ 1 
đến 8:
Câu 1. Bài thơ được gieo vần gì?
A. Vần lưng 
B. Vần chân
C. Vần liền
D. Vần cách
Câu 2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai, xuất hiện như thế nào?
A. Là tác giả, xuất hiện trực tiếp qua đại từ “mình”
B. Là tác giả, xuất hiện trực tiếp qua đại từ “tôi”
C. Là tác giả, xuất hiện trực tiếp, xưng tên riêng
D. Là tác giả, xuất hiện gián tiếp
Câu 3. Có thể chia bố cục bài thơ theo những cách nào?
A. Bốn phần (mỗi phần 2 câu) hoặc hai phần (2 câu đầu và 6 câu cuối)
B. Bốn phần (mỗi phần 2 câu) hoặc hai phần (6 câu đầu và 2 câu cuối)
C. Hai phần (mỗi phần 4 câu) hoặc bốn phần (mỗi phần 2 câu)
D. Ba phần (3 câu đầu, 3 câu tiếp và 2 câu cuối) hoặc ba phần (2 câu đầu, 2 câu tiếp và 
4 câu cuối)
Câu 4. Phép đối trong bài thơ xuất hiện ở những cặp câu nào? 
A. 1 – 2 và 3 – 4
B. 3 – 4 và 5 – 6
C. 5 – 6 và 7 – 8
D. 1 – 2 và 7 – 8 
Câu 5. “Tự trào” có nghĩa là gì?
A. Tự kể về mình
B. Tự viết về mình
C. Tự nói về mình
D. Tự cười mình
Câu 6. Trong bài thơ trên, nhân vật trữ tình “tự trào” điều gì?
A. Cái nghèo của mình
B. Cái dốt nát của mình
C. Cái vô tích sự của mình
D. Cái khôn ngoan của mình
Câu 7. Nhận định nào nói đầy đủ và chính xác nhất những điều cụ thể mà nhân vật trữ 
tình “tự trào”?
A. Không có gì nổi bật, không có trình độ, không được mọi người yêu quý, có những 
thói quen xấu
B. Không thích nghi được với thời cuộc, gàn dở, không được mọi người ưa thích, 
không có tài năng
C. Có những thói quen xấu, không thích nghi được với thời cuộc, không có trình độ, 
không có lòng tự trọng
D. Không có gì nổi bật, không thích nghi được với thời cuộc, có những thói quen xấu, 
không phát huy được khả năng Câu 8. “Tự trào” cho thấy rõ nhất điều gì ở nhân vật trữ tình?
A. Lòng yêu nước
B. Sự hiếu học
C. Lòng tự trọng
D. Tính hài hước
Câu 9. Vì sao nói tiếng cười của Nguyễn Khuyến trong bài thơ là tiếng cười của lương 
tâm, của ý thức liêm sỉ, thâm thuý và thấm đẫm nước mắt? Trả lời trong khoảng 5 ￿ 7 
dòng.
Câu 10. Anh / chị có khi nào “tự trào” không? Hãy lí giải cụ thể. Trả lời trong khoảng 
5 đến 7 dòng. 
II. VIẾT (4đ)
Câu 1: Viết bài luận thuyết phục người thân (bố mẹ, anh chị, bạn bè) điều chỉnh quan 
niệm sống: tiền là thước đo năng lực, tiền phản ánh giá trị sống của con người 
ĐỀ SỐ 4
 I. ĐỌC HIỂU (6.0 điểm)
 Đọc văn bản:
 CHÂN QUÊ
 Nguyễn Bính
 Hôm qua em đi tỉnh về,
 Đợi em ở mãi con đê đầu làng.
 Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng.
 Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
 Nào đâu cái yếm lụa sồi?
 Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
 Nào đâu cái áo tứ thân?
 Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
 Nói ra sợ mất lòng em,
 Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.
 Như hôm em đi lễ chùa,
 Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
 Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
 Thầy u mình với chúng mình chân quê.
 Hôm qua em đi tỉnh về,
 Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
 (Nguồn: 
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Văn bản trên được viết theo thể thơ nào?
A. Song thất lục bát
B. Lục bát
C. Tự do
D. Thất ngôn bát cú
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của văn bản là A. nghị luận.
B. tự sự.
C. miêu tả.
D. biểu cảm.
Câu 3. Hình ảnh nào không phải là nét chân quê của cô gái trong bài thơ ?
A. Khăn nhung, quần lĩnh
B. Chiếc nón quai thao 
C. Cái yếm lụa sồi
D. Áo cài khuy bấm
Câu 4. Tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong đoạn thơ: 
Nào đâu cái yếm lụa sồi ?
 Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
 Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
A. Nhấn mạnh nét hiện đại của cô gái
B. Nhấn mạnh sự thay đổi ngoại hình của cô gái
C. Nhấn mạnh sự mất mát của chàng trai trước sự thay đổi của cô gái
D. Nhấn mạnh sự nuối tiếc, hụt hẫng của chàng trai trước sự thay đổi của cô gái
Câu 5. Ngôn ngữ của tác giả trong bài thơ là ngôn ngữ: 
A. giản dị, mộc mạc, gần gũi với ngôn ngữ dân gian.
B. mộc mạc, quê mùa, hóm hỉnh, gần gũi với người dân quê.
C. cổ kính mà hiện đại.
D. hiện đại, cách tân táo bạo.
Câu 6. Chàng trai muốn nhắn nhủ điều gì qua câu thơ ?
 “Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa” 
A. Nhắn nhủ cô gái giữ gìn những nét đẹp thôn quê
B. Nhắn nhủ cô gái giữ gìn những nét đẹp truyền thống
C. Nhắn nhủ cô gái giữ gìn những nét đẹp dân dã 
D. Nhắn nhủ cô gái đừng chạy theo trào lưu hiện đại
Câu 7. Qua bài thơ, từ “chân quê” được hiểu là: 
A. sự mộc mạc, giản dị của người nông dân.
B. sự quê mùa, lạc hậu của chàng trai.
C. sự mộc mạc, chân chất, đằm thắm của vẻ đẹp truyền thống.
D. sự mộc mạc, chân chất của trang phục truyền thống.
Trả lời câu hỏi/ thực hiện yêu cầu:
Câu 8. Chàng trai thể hiện thái độ gì trong hai câu thơ sau:
Nói ra sợ mất lòng em,
Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.
Câu 9. Anh/ chị có đồng tình với quan niệm “giữ nguyên quê mùa” của chàng trai 
trong bài thơ không? Vì sao ?
Câu 10. Anh/ chị cần làm gì trong việc giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống?
II. VIẾT (4.0 điểm)
 Đọc bài thơ : 
 Công danh đã được hợp về nhàn,
 Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy muống,
 Đìa thanh phát cỏ ương sen.
 Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
 Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
 Bui* có một lòng trung lẫn hiếu,
 Mài chăng** khuyết, nhuộm chăng đen.
 (Thuật hứng 24 – Nguyễn Trãi, Trích Luận đề về Nguyễn Trãi, 
NXB Thanh 
Niên, 2003, tr.87)
*Bui: duy, chỉ có 
**chăng: chẳng, không
 Thực hiện yêu cầu:
 Viết bài văn nghị luận (khoảng 500 chữ) trình bày cảm nhận của anh/chị về lối 
sống thanh nhàn của tác giả qua bài thơ.
ĐỀ SỐ 5: 
Phần 1: Đọc hiểu văn bản (6 điểm)
Đọc đoạn văn và thực hiện các yêu cầu:
 Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà 
dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta 
thổ. Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều đến thế. Vì dì còn 
phải khóc hơn thế nhiều, khi hắn chán chửi, bỏ nhà mà đi, bỏ dì bơ vơ, đau ốm, để tìm 
cơm rượu. Trách làm gì hắn, cái con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, 
phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo què liệt không còn những cái ấy để 
mà cho. Không, dì có trách chi con người tàn nhẫn ấy. Cũng như dì đã không trách bà 
tôi đã làm ngơ không cấp đỡ cho dì. Bà tôi có còn giàu như trước nữa đâu? Người đã 
già, đã ốm yếu, và khổ cực thay! Đã nghèo như lúc còn hăm hai. Cái cơ nghiệp người 
gây dựng thầy tôi buôn bán thua lỗ, chúng tôi học hành tổn phí nhiều, đã tan tác đi 
theo gió bốn phương. Người chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quà và 
rất nhiều nước mắt. Và rất nhiều lời than thở.
(Trích Dì Hảo –Tuyển tập truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao, NXB VH, 2017, tr. 208) 
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định thể loại của văn bản trên.
A. Tiểu thuyết
B. Kịch
C. Truyện ngắn
D. Truyền kì.
Câu 2: Xác định nhân vật chính trong văn bản.
A. Dì Hảo
B. Hắn
C. Dì Hảo và Hắn
D. Người kể chuyện
Câu 3: Chọn đáp án đúng nhất thể hiện dì Hảo không trách người chồng tàn nhẫn của 
mình?
A. “Dì có trách chi con người tàn nhẫn ấy.”

File đính kèm:

  • docx6_de_on_tap_ngu_van_lop_10_sach_ket_noi_tri_thuc_voi_cuoc_so.docx