Đề tài Phương pháp làm bài văn miêu tả, thuyết minh, nghị luận ở THCS

Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là sự sáng tạo kỳ diệu của loài người, là phương tiện phổ biến và thuận tiện nhất trong giao tiếp, giúp chúng ta bày tổ ý kiến, thái độ đánh giá riêng của mình. Nhưng không phải cứ có ngôn ngữ có công cụ giao tiếp là chúng ta có thể bày tỏ được ý kiến, thái độ nhận xét của mình cho người khác hiểu một cách chính xác, khoa học. Vì vậy chúng ta phải biết sử dụng ngôn ngữ như thế nào để đạt được mục đích giao tiếp bày tỏ thái độ ý kiến của mình sao cho người khác hiểu được.
Ngôn ngữ là công cụ cho quá trình tư duy, giúp cho tư duy phát triển, giúp cho người giao tiếp thành công nếu người ta biết sử dụng nó. Nhiệm vụ , mục tiêu của nhà trường hiện nay là giúp học sinh sử dụng ngôn ngữ, để đạt được mục đích giao tiếp trong cuộc sống. Cùng với các bộ môn, môn Ngữ văn trong nhà trường THCS với các phân môn, đặc biệt là môn Tiếng việt có một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư duy cho học sinh, trang bị cho học sinh công cụ giao tiếp để tiếp nhận, diễn đạt những kiến thức khoa học nắm bắt được từ nhà trường, ngoài xã hội và cuộc sống. “ Nói cách khác học sinh muốn thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, trước hết để nghiên cứu và rèn luyện kỹ năng Tiếng việt- chìa khoá của nhận thức, của học vấn của sự phát triển trí tuệ. Thiếu quan tâm đúng mức tới việc rèn luyện năng lực Tiếng việt, học sinh không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của bất cứ bộ môn khoa học nào trong nhà tường ” ( Lê A- Nguyễn Dục- 1999 ). Do vậy nhà trường cần coi trọng việc học văn bản và tạo lập văn bản. Bởi lẽ văn bản là sản phẩm tổng hợp nhất, là tấm gương phản ánh năng lựccủa học sinh. Đó là năng lực tư duy, giao tiếp là vốn sống, vốn văn học, văn hoá, là việc thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo cá nhân. Vì thế việc dạy Tiếng việt kết hợp với việc phát triển tư duy hình thành kỹ năng cơ bản để tập viết đoạn văn- văn bản cần phải đi từ dễ đến khó. Bắt đầu là các loại văn bản sáng tác ( trần thuật, tự sự, biểu cảm, miêu tả( tái hiện hình ảnh của sự vật ,của một phong cảnh. . . ). Hay một văn bản khác như thuyết minh ( trình bày, giới thiệu, giải thích đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của hiện tượng trong tự nhiên xã hội – khoa học – văn học để thể hiện một quan điểm, một cách nhìn, một cách nghĩ  ). Nghị luận là một thể văn học sinh được làm quen ở cấpTHCS và sẽ phát triển ở  THPT, tạo điều kiện để học sinh có suy nghĩ logíc, sáng tạo và sau này có thể trở thành những nhà nghiên cứu khoa học, nhất là khoa văn học.
doc 84 trang Khải Lâm 28/12/2023 520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Phương pháp làm bài văn miêu tả, thuyết minh, nghị luận ở THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Phương pháp làm bài văn miêu tả, thuyết minh, nghị luận ở THCS

Đề tài Phương pháp làm bài văn miêu tả, thuyết minh, nghị luận ở THCS
g. Cùng với các bộ môn, môn Ngữ văn trong nhà trường THCS với các phân môn, đặc biệt là môn Tiếng việt có một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển tư duy cho học sinh, trang bị cho học sinh công cụ giao tiếp để tiếp nhận, diễn đạt những kiến thức khoa học nắm bắt được từ nhà trường, ngoài xã hội và cuộc sống. “ Nói cách khác học sinh muốn thực hiện tốt nhiệm vụ học tập, trước hết để nghiên cứu và rèn luyện kỹ năng Tiếng việt- chìa khoá của nhận thức, của học vấn của sự phát triển trí tuệ. Thiếu quan tâm đúng mức tới việc rèn luyện năng lực Tiếng việt, học sinh không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của bất cứ bộ môn khoa học nào trong nhà tường ” ( Lê A- Nguyễn Dục- 1999 ). Do vậy nhà trường cần coi trọng việc học văn bản và tạo lập văn bản. Bởi lẽ văn bản là sản phẩm tổng hợp nhất, là tấm gương phản ánh năng lựccủa học sinh. Đó là năng lực tư duy, giao tiếp là vốn sống, vốn văn học, văn hoá, là việc thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo cá nhân. Vì thế việc dạy Tiếng việt kết hợp với việc phát triển tư duy hình thành kỹ năng cơ bản để tập viết đoạn văn- văn bản cần phải đi từ dễ đến khó. Bắt đầu là các loại văn bản sáng tác ( trần thuật, tự sự, biểu cảm, miêu tả( tái hiện hình ảnh của sự vật ,của một phong cảnh. . . ). Hay một văn bản khác như thuyết minh ( trình bày, giới thiệu, giải thích đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của hiện tượng trong tự nhiên xã hội – khoa học – văn học để thể hiện một quan điểm, một cách nhìn, một cách nghĩ ). Nghị luận là một thể văn học sinh được làm quen ở cấpTHCS và sẽ phát triển ở THPT, tạo điều kiện để học sinh có suy nghĩ logíc, sáng tạo và sau này có thể trở thành những nhà nghiên cứu khoa học, nhất là khoa văn học.
Nói chung văn miêu tả, thuyết minh, nghị luận đều có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực tư duy văn học cho học sinh. ở mỗi một thể loại lại có những tác động khác nhau đối với kỹ năng viết của các em. 
Có thể nói rằng ở mỗi thể loại, mỗi kiểu văn đều đư...hất nổi bật của vấn đề được nói đến trong bài văn miêu tả đó. Như vậy, so với Tiểu học thì văn miêu tả ở bậc THCS đã có cấp độ khái quát cao hơn mang tính chìu tượng hơn. Văn miêu tả rất quen thuộc, gần gũi với đời sống hàng ngày của con người ví như tả một người thầy, cô giáo, tả về con đường, tả dòng sông quê hương Đã trở nên gắn bó mật thiết với các em. ở dạng văn miêu tả có tác dụng tạo lời văn sinh động, hấp dẫn bằng việc sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi trí tưởng tượng phong phú về cuộc sống và thế giới mà các em đang hình thành. Tôi nghĩ rằng đây không phải là một đề tài mới mà nó đã có cơ sở ban đầu. Trong chương trình mới hiện nay luôn yêu cầu phải có nmột phương thức tiếp nhận mới, con đường mới để hình thành năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh giúp học sinh biết sản sinh ra các văn bản mới. Vì vậy rất cần thiết phát huy văn bản miêu tả ở nhà trường và cả trong cuộc 
sống đương đại này.
	Tiếp đến là văn bản thuyết minh. Đây là kiểuvăn bảnlần đầu tiên được đưa vào chương trình tập làm văn ở bậc THCS. Đây là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng rất phổ biến trong đời sống. Từ lâu trên thế giới ở một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản đã đưa vào chương trình học cho học sinh nước học. Văn bản thuyết ming là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, các ding, cùng lý do phát sinh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật, nhămf cung cấp tri thức, hướng dẫn cho con người. Văn bản thuyết minh được sử dụng rất rộng rãi, ngành nghề nào cũng cần đến. Khi mua một đồ dùng như vi tính, quạt  đều phải kèm theo một bản thuyết minh. Hay mua một hộp bánh kẹo trên bao bì cũng ghi ngày sản xuất, hạn sử dụng, trọng lượng, thành phần các chất làm nên sản phẩm  Đến một danh lam thắng cảnh đều có ghi lời giới thiệu lai lịch thắng cảnh. Cầm một quyển sách bìa có ghi lời giới thiệu  Tất cả đều là văn bản thuyết minh. Thuyết minh có nghĩa là giải thích, trình bày, giới thiệu cho người đọc, người nghe hiểu rõ. Khác với văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành c hính ...ời giáo viên.
	Nếu học sinh viết bài văn biểu cảm, thuyết minh sao cho hay, đúng đã rất khó thì học bài văn nghi luận đối với học sinh THCS càng bỡ ngỡ mới mẻ và khó khăn hơn nhiều. Bởi lẽ các em mới được làm quen với loại văn này. Mặt khác những vấn đề yêu cầu cần có để viết tốt bài văn nghị luận với học sinh THCS là vô cùng hạn chế ( Phương pháp, cách thức làm bài, vốn sống thực tế nghèo nàn, vốn hiểu biết văn hoá, phong tục, tập quán trong xã hội, vốn lập luận non nớt, các em ít quan tâm đến tính chặt chẽ, lôgíc trong làm văn nghị luận ). Thêm nữa việc giảng dạy phương pháp làm văn nghị luận đối với giáo viên cũng khó hơn so với các bài văn sáng tác. Nhiều băn khoăn trăn trở đặt ra: 
Giáo viên cần dạy như thế nào để học sinh làm được bài văn nghi luận tốt? Học sinh học cách nào để viết bài văn nghị luận đúng và hay? Bao nhiêu câu hỏi đặt ra với thầy và trò xung quanh vấn đề phương pháp làm văn nghị luận.
	Từ những yêu cầu về phương pháp giảng dạy và học các loại văn miêu tả, thuyết minh, nghị luận sao cho đạt hiệu quả tốt nhất cho nên việc giảng dạy và học tập phương pháp làm văn miêu tả, thuyết ming, nghị luận là vấn đề quan trọng đối với giáo viên và học sinh THCS. 
	Đó là lí do khiến tôi chọn đề tài này.
II. Lịch sử vấn đề.
	Khi xã hôi loài người ra đời gắn lion với lao động sản xuất, đời sống sinh hoạt thì chính lúc đó văn chương ra đời nhằm tái tạo lại cuộc sống, đời sống con người và hoạt động xã hội. Văn học Việt Nam ra đời kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho đến hôm nay, với nhiều đề tài, chủ đề, kiểu văn khác nhau song suy cho cùng là xuất phát từ cuộc sống, nhu cầu thẩm mĩ của con người.
	Hiện nay có sáu kiểu văn bản chính theo sách giáo khoa chỉnh lí là văn tự sự, văn miêu tả, văn biểu cảm, văn thuyết minh, văn nghị luận, văn bản hành chính- công vụ. 
Về văn miêu tả học ở chương trình Ngữ văn 6 ( tập 2 ) NXB GD 2002.
Về văn thuyết minh học ở chương trình Ngữ văn 8 ( tập 1 ) NXB GD 2004.
Về văn nghị luận học ở chương trình Ngữ văn 8 ( tập 2 

File đính kèm:

  • docde_tai_phuong_phap_lam_bai_van_mieu_ta_thuyet_minh_nghi_luan.doc