Nội dung ôn tập Ngữ văn Lớp 12

doc 16 trang Mạnh Nam 05/06/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "Nội dung ôn tập Ngữ văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nội dung ôn tập Ngữ văn Lớp 12

Nội dung ôn tập Ngữ văn Lớp 12
 NỘI DUNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 12
- Đối tượng áp dụng: toàn bộ HS lớp 12
- Thời gian ôn tập: trong tuần 25 (từ 10/2/2020 đến 16/2/2020)
- Hình thức kiểm tra: GV có thể kiểm tra miệng hoặc kiểm tra giấy trong tuần đầu 
tiên sau thời gian nghỉ phòng chống dịch bệnh 
- Nội dung: Ôn tập hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” ( Tô Hoài) và “Vợ Nhặt” (Kim 
Lân) theo các đề dưới đây
 Một số đề ôn bài Vợ chồng A Phủ
Đề 1 : Có ý kiến cho rằng: Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của nhân vật Mị vào 
đêm tình mùa xuân là một đoạn đặc sắc kết tinh tài năng nghệ thuật và tư 
tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn Tô Hoài trong đoạn trích Vợ 
chồng A Phủ.
 ( Sách Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr 6-7-8 )
Anh/chị có đồng ý với ý kiến trên không? Căn cứ vào những hiểu biết về tác phẩm, 
hãy làm rõ chủ kiến của mình.
Đề 2: Đề bài :Phân tích và so sánh sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ 
của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu 
A Phủ( “Vợ chồng A phủ- Tô Hoài)
HS có thể tham khảo đáp án sau
 Đáp án Đề số 1:
Giải thích ý kiến
Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của nhân vật Mị vào đêm tình mùa xuân là một đoạn 
đặc sắc kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của 
nhà văn Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
-Tài năng nghệ thuật: là tài năng sáng tạo riêng, độc đáo của người nghệ sĩ: từ 
cách chọn đề tài, xây dựng nhân vật, tình huống truyện, ngôn ngữ, giọng điệu, 
dùng từ đặt câu .
-Tư tưởng nhân đạo: chính là tấm lòng yêu thương con người, “nhà văn chân chính 
là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”, đồng cảm với những kiếp đời đau khổ bất hạnh, 
lên án những thế lực phi nhân bản chà đạp lên quyền sống của con người, phát hiện 
, ngợi ca những vẻ đẹp nhân văn. . .
Phân tích, chứng minh: –Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời 
– truyền kiếp là hai mươi đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay bố Pá Tra hồi cưới 
nhau.
+Quãng đời của Mị ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một 
người đàn bà ở giữa chốn đia ngục trần gian.
+Tuy là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại phải làm việc quần quật như 
“con trâu, con ngựa”. Sống vô cảm vô hồn, không có ý thức về thời gian , tuổi trẻ, 
tình yêu, cam chịu, nhẫn nhục..
–Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, 
nhưng đằng sau cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những 
tia lửa nhỏ của khát vọng sống. Và chỉ cần một cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên 
thành lửa ngọn – ngọn lửa của sự khát khao mãnh liệt được sống – chứ không chấp 
nhận tồn tại với thân phận nô lệ như vậy.
-Mị: sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc
+ Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:
++ “Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ, 
hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím 
man mác”.
++ “Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà” cũng có những tác 
động nhất định đến tâm lí của Mị.
++ Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. 
“Mị đã lấy hũ rượu uống ực từng bát một”. Mị vừa như đi phần đời cay đắng của 
mình vừa khao khát phần đời sắp đến . Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
++ Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt 
quan trọng. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh 
tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn 
biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt. Thoạt 
tiên, tiếng sáo còn “lấp ló”, “lửng lơ” đầu núi, ngoài đường. Sau đó, tiếng sáo đã 
thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng tiếng sáo trở thành lời mời gọi 
tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo.
+ Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:
++Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc 
ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại “Mị thấy phơi 
phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. “Mị còn trẻ 
lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. ++ Phản ứng đầu tiên của Mị là: “nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho 
chết”. Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình. Những giọt nước mắt tưởng 
đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài.
++Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ sắn một 
miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu 
chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
++ Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy 
hoa vắt ở phía trong vách”.
++Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói, tiếng sáo vẫn dìu 
tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
++Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt- 
hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống ở Mị càng thêm phần dữ dội. Qua những 
chi tiết này, nhà văn muốn phát biểu một tư tưởng: sức sống của con người cho dù 
bị giẫm đạp. bị trói chặt vẫn không thể chết mà luôn luôn âm ỉ, chỉ gặp dịp là bùng 
lên.
-Thành công của nhà văn chính là việc khắc họa nội tâm nhân vật của yếu bằng 
tâm trạng.
+Chỉ bằng một sự khai thác tinh tế nơi sự thay đổi cảnh sắc mùa xuân đất trời, mùa 
xuân nơi bản làng, người đọc như thấy được nó đã tác động như thế nào đến tâm 
hồn nguội lạnh của người đàn bà kia.
+ Cả trong đêm ấy, hành động của Mị được tác giả miêu tả rất ít, ngắn gọn, những 
nó đã thật sự gây hứng thú cho người đọc khi dõi theo từng cử chỉ, từng kí ức, từng 
việc làm của Mị trong đêm mùa xuân ấy.
+Nét đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Tô Hoài trong truyện ngắn này là miêu 
tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật, nhất là Mị. Những đoạn tả sự thức tỉnh 
của niềm khát vọng cuộc sống ở Mị trong một đêm xuân (đã phân tích ở trên), 
cảnh Mị suy nghĩ tới hành động cắt dây trói cho A Phủ là những thành công nổi rõ 
của tác giả trong cách miêu tả “từ bên trong” nhân vật. Tác giả diễn tả được những 
biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật của mình, tránh được cái nhìn giản đơn 
cũng như cách tô vẽ giả tạo khi viết về những con người miền núi.
+Nghệ thuật truyện của Tô Hoài còn thành công ở chỗ tác giả đã nắm bắt, lựa chọn 
được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao. Những chi tiết ấy 
lại thường đặt trong một hệ thống tương quan đối lập nên càng nổi rõ (Cô Mị cúi 
mặt, lặng lẽ như một cái bóng giữa cảnh giàu có tấp nập của nhà Pá Tra; căn phòng 
âm u của Mị và khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống và ánh sáng ở bên ngòai; 
tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vào vách v.v ). +Có thể nói, Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào nơi Mị mới có thể gây cho 
người đọc một sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.
+Với sự trỗi dậy – dù chỉ trong khoảnh khắc – của khát khao sống, ta nhận ra rằng 
cô Mị “lùi lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa”, đã không còn nữa; mà thay vào đó là 
một cô gái luôn âm ỉ trong mình một ngọn lửa được sống – chứ không phải tồn tại 
như một cái xác không hồn như trước kia.
Kết bài : Bình luận, đánh giá chung
Đoạn văn miêu tả sự hồi sinh của Mị đúng là kết tinh tài năng nghệ thuật và tư 
tưởng nhân đạo của Tô Hoài. Đây là một đoạn mang đậm chất thơ “Phong cảnh và 
con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên với một sức rung 
động thơ”. Chất thơ ấy toát lên từ nội dung tác phẩm: vấn đề khát vọng tự do, hạnh 
phúc của nhân dân lao động miền núi và con đường giải phóng của họ. Nó cũng 
toát lên từ sức sống mãnh liệt, từ vẻ đẹp bên trong tâm hồn nhân vật. Chất thơ ấy 
cũng thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc tươi sáng và 
đường nét uyển chuyển và hùng vĩ của Tây Bắc, làm nền cho những cảnh sinh hoạt 
giàu chất trữ tình của con người 
Đề 2: Đề bài :Phân tích và so sánh sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ 
của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu 
A Phủ( “Vợ chồng A phủ- Tô Hoài)
Bước 1: Khái quát nhân vật:
– Mị là một cô gái trẻ đẹp. đảm đang, duyên dáng, thổi sáo giỏi, được nhiều chàng 
trai yêu mến ngày đêm thổi sáo đi theo.
-Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ nghèo ở miền núi ngày trước: 
có những phẩm chất tốt đẹp, đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị đày đọa 
trong cuộc sống nô lệ.Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra
(Phần này chỉ nêu ngắn gọn, không phân tích )
– Bị vùi dập đến cùng nhưng ở người con gái ấy vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt.
Bước 2 :Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị 
trong đêm tình mùa xuân
Yếu tố ngoại cảnh tác động đến tâm trạng và hành động của Mị:
– Mùa xuân năm ấy thật đặc biệt: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào 
cỏ gianh vàng vàng ửng ”
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, 
màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không 
thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những 
hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh 
cuộc đời Mị
-Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một 
hành động “nổi loạn nhân tính”.Ngày tết Mị cũng uống rượu. Mị ngồi bên bếp lửa 
“tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọibạn đầu làng” nhưng “lòng Mị thì đang sống về 
ngày trước”. Tiếng sáo đánh thức tâm hồn Mị, đánh thức quá khứ, đưa Mị trở về 
với mùa xuân cũ. Vị ngọt ngào của quá khứ bất giác nhắc nhớ vị cay đắng trong 
hiện tại. Mị thấm thía đau khổ, lại nghĩ đến cái chết.
– Hiện tại và quá khứ, thân phận và khát vọng giao tranh gay gắt trong Mị. Mị xắn 
mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. “Mị muốn đi chơi”. Mị thay váy áo chuẩn bị đi chơi. 
Hành động của Mị không khác nào một sự nổi loạn.
– Sức sống trào dâng mãnh liệt đến mức ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột nhà, 
Mị vẫn không biết mình bị trói, vẫn vùng bước đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu như 
người mộng du. Những vết trói đau thít, tiếng chân ngựa đạp vách, Mị thổn thức 
nghĩ mình không bằng con ngựa.
– Tô Hoài đã khám phá và phát hiện đằng sau một tâm hồn câm lặng vẫn còn một 
tâm hồn khát khao sống, khát khao yêu, đằng sau một con rùa lùi lũi nuôi trong xó 
cửa còn có một con người
Bước 3 :Phân tích sự sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật 
Mị trong Đêm đông cứu A Phủ
– Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Tâm 
hồn Mị đã trở lại với sự câm lặng, vô cảm từ sau đêm tình mùa xuân ấy.
– Cho đến khi nhìn thây một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám 
đen lại của A Phủ, Mị mới xúc động, nhớ lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của 
mình.
– Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị chấp nhận chịu sự trừng 
phạt của nhà thống lý và quyết định cắt dây trói cứu A Phủ.
– Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối và sau đó vụt chạy theo A Phủ 
bởi “Ở đây thì chết mất”. Hành động ấy diễn ra một cách tức thời, là hành động bất 
ngờ nhưng tất yếu. Mị cắt đay trói cứu A Phủ đồng thời cũng tự giải thoát cho 
chính mình. Hành động ấy hoàn toàn phù hợp với tính cách của Mị – một người 
con gái giàu sức sống.
Bước 4: chỉ ra điểm giống và khác nhau trong tâm trạng, hành động của nhân vật 
Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cắt dây trói cứu A Phủ.
a. Giống nhau: – Sự trỗi dậy sức sống ở cả hai lần đều có cơ sở là bản tính mạnh mẽ, không dễ 
chấp nhận số phận của Mị. Cả hai lần đều là khi Mị thoát khỏi trạng thái vô cảm 
ngày thường.
– Hai tình huống đã khẳng định tài năng phân tích tâm lí nhân vật và chiều sâu 
nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài.
b. Khác nhau:
– Lần thứ nhất, Mị nhận được sự tác động theo chiều hướng tích cực từ ngoại 
cảnh, bản thân Mị chỉ định giải thoát trong chốc lát
-Lần thứ hai không có sự hỗ trợ của ngoại cảnh, sự trỗi dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ, 
quyết liệt hơn. Mị đã giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của cả cường quyền lẫn 
thần quyền. Với hành động này, Mị đã chiến thắng số phận.
c.Lí giải sự khác nhau đó :Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng 
hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo 
người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân 
mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng 
khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Trong lòng 
Mị luôn tiềm ẩn sức sống tiềm tàng, khát khao được hưởng hạnh phúc, càng bị vùi 
dập thì khát khao trong Mị càng trỗi dậy, Mị cắt dây trói cứu A phủ và cũng cắt sợi 
dây vô hình ( thần quyền và cường quyền) để tự giải phóng mình.
 ÔN TẬP “VỢ NHẶT”
Câu 1.Trình bày HCST, ý nghĩa nhan đề và ý nghĩa của tình huống truyện
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945.
- Tiền thân của Vợ nhặt là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng 
Tám năm 1945, nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại (1954), tác 
giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn Vợ nhặt.
b. Ý nghĩa nhan đề
- Vợ nhặt hiểu theo nghĩa đen là nhặt được vợ. Nhan đề ấy tạo được ấn tượng, kích thích 
sự chú ý của người đọc vì cái giá của con người quá rẻ rúng.
- Qua nhan đề Vợ nhặt, Kim Lân đã phản ánh được tình cảnh thê thảm và thân phận tủi 
nhục của người nông dân nghèo trong một nạn đói khủng khiếp; sự đen tối bế tắc của xã 
hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. - Nhan đề hiện được giá trị hiện thực (Tố cáo tội ác của thực dân, phát xít) và giá trị nhân 
đạo (Ca ngợi phẩm chất của người lao động). Đồng thời nhan đề cũng góp phần thể hiện 
tình huống truyện vừa éo le vừa bất ngờ. 
c. Tình huống truyện
- Tình huống truyện một phần thể hiện ngay trong nhan đề tác phẩm: Vợ nhặt. Tràng nhặt 
được vợ như người ta nhặt được một thứ đồ vật vô chủ nào đó.
 - Tràng một người xấu xí, thô kệch lại là dân ngụ cư mà lại lấy được vợ, hơn thế lại 
có vợ theo hẳn hoi. Lạ đời hơn Tràng lấy vợ trong lúc nạn đói đang hoành hành dữ dội, 
chỉ bằng vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc.
Tình huống bất ngờ, éo le, giàu kịch tính : khiến cho mọi người trong xóm ngụ cư vô 
cùng ngạc nhiên , bà cụ Tứ ngạc nhiên, và ngay cả bản thân Tràng cũng ngạc nhiên
 - Nhưng trong chính hoàn cảnh bi đát, tuyệt vọng đấy ba con người cùng khổ vẫn có 
niềm tin vào cuộc sống, họ nương tựa vào nhau, cùng nhau hi vọng và tương lai. Chỉ 
trong thời gian ngắn họ đã có những thay đổi mà cụ thể và sâu sắc nhất là bà cụ Tứ, một 
người mẹ nghèo khổ, đôn hậu và giàu lòng yêu thương.
 - Tình huống truyện cũng là cách để nhà văn Kim Lân lên tiếng tố cáo xã hội thực 
dân phát xít gây nên nạn đói khủng khiếpnăm 1945. Nạn đói đã khiến phẩm giá con 
người bị hạ thấp đến mức người ta có thể nhặt được vợ.
Câu 2. Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt”
Gợi ý
1. Mở bài :
 - Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại 
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con 
chó xấu xí”. tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng 
khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.-Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà 
văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật Tràng: nghèo đói,bất hạnh nhưng giàu tình 
người và khát vọng hạnh phúc.Điều đó được thể hiện qua chính câu chuyện nhặt vợ 
của anh giữa ngày đói.
2. Thân bài :
 a.Xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, có phẩm chất hiền 
lành , tốt bụng , sẵn sàng cưu mang người cùng cảnh ngộ trong nạ đói khủng khiếp .
+ Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê, có một mẹ già và làm 
nghề đẩy xe bò mướn.Đã vậy, Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu 
trọc nhẵn”; “cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí”lúc nào cũng 
đắm vào bóng chiều của hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở 
hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng có một cảnh 
ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp. b. Sự kiện có tính bước ngoặt:con người có thân phận thấp hèn ấy bỗng nhiên lại trở 
thành một chú rể có thể coi là hạnh phúc : Tràng bỗng dưng có vợ.
 Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát 
bánh đúc giữa ngày đói .Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một lạ mà thú vị - đùa mà 
thật , thật mà cứ như đùa.
+Ban đầu Tràng chỉ hò cho vui “ Muốn ăn cơm .anh nì”. Tràng chỉ muốn hò để xua đi 
cái mệt mỏi trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả . ai ngờ có người đàn bà 
đói xông xáo đến đẩy xe thật. nhưng vì đùa nên Tràng không giữ đúng lời thỏa thuận của 
câu hò
+ Hôm sau gặp lại : khi Tràng đang ngồi ngỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn 
bà chạy sập đến , cong cớn , sưng sỉa với hắn “ Điêu, người thế mà điêu”. Tràng không 
nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà 
thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “ Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy 
lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà đói, rách 
mướp thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch 
ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người kia ăn, không chỉ 
ăn mà còn cho ăn rất nhiều “ bốn bát bánh đúc” đó chính là lòng thương của một con 
người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.
 * Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, 
Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết 
có nuôi nổi không , lại còn đèo bòng”.Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Có vẻ như 
một quyết định không nghiêm túc như phóng lao phải theo lao vậy.Việc hai người đến 
với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên : Người đàn bà cần 
Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo 
ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
b. Trong hoàn cảnh khốn cùng , Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo 
dựng mái ấm gia đình:
 .Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc , Tràng cứ phớn phở khác 
thường . thỉnh thoảng còn cười nụ một mình .Lúc thì hắn đi sát người đàn bà , lúc lại lùi 
ra sau một tí , hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy 
ngường ngượng. Tràng đã thực sự thay đổi , trong lòng Tràng ngập tràn niềm vui sướng : 
“Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả 
đói khát đang đe doạ Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi 
bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy ”Có thể nói , trong 
tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của 
Tràng khi đã có vợ bằng các từ ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên 
lấp lánh, miệng cười tủm tỉm 
+ Khi về đến nhà :lúc đầu Tràng thấy ngượng ngịu rồi cứ thế đứng tây ngây ra giữa nhà, 
chợt hắn thấy sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau tràng tủm tỉm cười một mình 
với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt , không dám tin vào sự thực
+ Khi chờ mẹ về chưa bao giờ hắn lại nôn nóng thế, đi đi lại lại. Khi mẹ về thì mừng rỡ, 
rối rít như tre con. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. bắt mẹ ngồi lên giường đề thưa 
chuyện. Cho thấy Tràng không còn là người vô tư nông cạn. Tràng đã ý thức được việc 
lấy vợ. Thế là Tràng đã có vợ thực.
c. Tràng có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng . Từ một 
anh phu xe cụ mịch , sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt , Tràng đã là người quan 
tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát đổi đời .
 Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”. Tràng thấy mình đổi khác “trong người êm ái , 
lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như 
không phải”.Tràng “ bỗng nhiên thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà”; “Hắn đã có 
một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như tổ ấm che mưa che 
nắng Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con 
sau này ”
 Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ . “Hắn xăm 
xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.So với 
cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng 
là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng 
: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.Tràng đã 
thật sự “phục sinh tâm hồn”- đó chính là giá trị lớn lao của hạnh phúc.Có một hiện thực 
tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh 
những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to 
lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng 
cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của tràng và những người 
như Tràng.
3. Kết bài:
 Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ 
hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện 
tư tưởng chủ đề của tác phẩm :Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn 
nghĩ đến sự sống.
Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được 
vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo: đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin 
tưởng vào tương lai.
Câu 3. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứtrong truyện ngắn “Vợ 
nhặt” của Kim Lân
Gợi ý:
1.Khái quát về cuộc đời của bà cụ : Trước hết, xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo khổ, 
từng trải, có cuộc đời trải qua nhiều gian truân : chồng và con đều đã mất, gia tài chỉ còn 
lại túp lều tranh rách nát và thằng con trai xấu xí ngẩn ngơ. Bà đã già, đi đứng “lọng 
khong”, sức khỏe đã yếu, vừa đi vừa húng hắng ho trong bóng chiều choạng vạng tê tái. 
2.Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ:
 Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ 
xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm 
nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về nhà.
 a. Khởi đầu , bà rất đỗi ngạc nhiên : 
+ Thứ nhất vì thái độ của anh Tràng hôm nay quá “ đon đả”. Thứ hai là nhân vật “ người 
đàn bà” có mặt ở đầu giường thằng con trai mình.
+ Bà phấp phỏng rồi đến thái độ “ đến giữa sân bà lão đứng sững lại” nhìn kĩ lần nữa
+ Nhiều câu hỏi cứ bám lấy tâm trí người mẹ tội nghiệp ấy “ : “Quái sao lại có người 
đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai 
mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...”
+ Ngạc nhiên đến nỗi bà hắp hạy cặp mắt cho đỡ nhoèn cứ như không thể tin vào mắt 
mình nữa. rồi bà “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Thái độ ngạc nhiên của người mẹ, 
phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự thật : chính sự cùng quẫn của hoàn 
cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con . 
+ Bà vào nhà và được Tràng giải thích cặn kẽ “ Kìa nhà tôi nó chào u”, “ nhà tôi nó mới 
về làm bạn với tôi đấy u ạ!” Bà cụ hiểu ra cơ sự. Để rồi nỗi tủi thân hóa thành nước mắt. 
Lòng bà ngổn ngang trăm mối, suy tư.
 b. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im 
lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo lắng, thương 
yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả 
giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
 - Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ: Bà thấy tủi thân vì cho rằng 
mình chưa làm tròn trách nhiệm của một người mẹ “ Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng 
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái,,,” . Bà khóc bì bà 
cảm thấy mình chưa làm tròn nghĩa vụ của một người mẹ.
+ Bà thương xót cho các con : Thứ nhất là thương cho con trai bà vì bà hiểu rằng “ 
người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con 
mình mới có vợ ”. Thú hai là xớt thuwowngcho người đàn bà , bà cảm thương cho tình 
cảnh khốn cùng của người con dâu “ bà lão nhìn người đàn bà ,lòng đầy thương xót. Nó 
bây giờ là dâu con trong nhà rồi”
+ Bà thấy mừng lòng : vất vả nuôi con khôn lớn trưởng thành nên cụ Tứ cũng vui mừng 
lắm trước sự thực con trai bà lấy được vợ. Bà vui vì từ đây con trai bà đã yên bề gia thất, 
có vợ rồi có con như bao người đàn bà khác. Câu nói nhẹ nhàng sau bao nhiêu nỗi niềm 
được nén lại của bà mẹ “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng 
mừng lòng” đã xua tan đi nỗi lo âu trong Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng lo sợ trong Tràng.

File đính kèm:

  • docnoi_dung_on_tap_ngu_van_lop_12.doc